leftcenterrightdel
 Đại diện VKSND tỉnh tại phiên tòa hình sự phúc thẩm.

Tóm tắt nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát

Sau khi mua của ông L. 1 thửa đất tại xã Ea Tul, huyện Cư M’gar (viết giấy tay), tháng 4/2017, ông K. gặp và nhờ Trần Tuấn Anh (SN 1985, bảo vệ cho 1 cơ quan nhà nước trên địa bàn thị xã Buôn Hồ) làm giúp các thủ tục đăng ký biến động tên người sử dụng đất (từ hộ ông L. sang hộ ông K.) trong thời gian 3 tháng, với chi phí 20 triệu đồng (nhận trước 15 triệu đồng kèm bản gốc các giấy tờ liên quan).

Sau đó, Tuấn Anh đến nhà vợ chồng ông L., nhờ ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, từ tên hộ ông L. sang tên cho vợ chồng Trần Tuấn Anh, với lý do đã mua lại đất từ ông K.

Do thấy Tuấn Anh cầm theo các giấy tờ gốc nên vợ chồng ông L. tin tưởng, đồng ý ký vào Hợp đồng. Vì vậy, Tuấn Anh thuận lợi hoàn thành các thủ tục và đăng ký chuyển nhượng GCNQSDĐ sang tên vợ chồng Tuấn Anh.

Áp dụng tương tự thủ đoạn trên, Tuấn Anh tiếp tục nhận chuyển nhượng thêm 1 thửa đất của ông V. sang tên vợ chồng Tuấn Anh.

Sau khi hoàn thành thủ tục sang tên đối với 2 GCNQSDĐ nêu trên, Tuấn Anh sử dụng thế chấp tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) - Chi nhánh Bắc Đắk Lắk để vay 500 triệu đồng.

Đến đầu năm 2019, Tuấn Anh vay của bà D.H. 200 triệu đồng và ông C. 100 triệu đồng. Tuy nhiên, do làm ăn thua lỗ nên Tuấn Anh không có khả năng trả nợ và đề nghị bán lại 2 thửa đất trên để cấn trừ khoản vay. 

Sau khi ký hợp đồng đặt cọc với bà D.H. và ông C., Tuấn Anh bỏ trốn khỏi địa phương.

Một số vấn đề cần lưu ý

Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2023/HSST ngày 27/12/2023 của TAND thị xã Buôn Hồ tuyên bố: bị cáo Trần Tuấn Anh phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Tuấn Anh 6 năm tù...

Ngày 18/1/2024, VKSND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 03/QĐ-VKS-P7 kháng nghị phúc thẩm bản án hình sự trên theo hướng hướng hủy toàn bộ Bản án để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung, do có vi phạm như sau:

Đối với số tiền 15 triệu đồng mà bị cáo Tuấn Anh chiếm đoạt của ông K.: Bản án sơ thẩm nhận định “Việc ông K. giao số tiền 15 triệu đồng cho Tuấn Anh vào năm 2017 để làm chi phí thực hiện các thủ tục sang tên GCNQSDĐ cho vợ chồng ông K., nhưng sau đó Trần Tuấn Anh đã dùng các thủ đoạn gian dối rồi bỏ trốn để chiếm đoạt. Hành vi mà Trần Tuấn Anh đã thực hiện thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm. Do đó, đến thời điểm Cơ quan CSĐT Công an thị xã triệu tập làm việc với Tuấn Anh và có đủ cơ sở xác định các hành vi mà Tuấn Anh đã thực hiện có dấu hiệu của tội phạm để ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can vào ngày 11/12/2022, thì hành vi trên của Trần Tuấn Anh đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”.

Việc cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo về các hành vi chiếm đoạt tài sản của ông K. là không đúng quy định của pháp luật và chưa đánh giá đầy đủ, toàn diện hành vi phạm tội của bị cáo, có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội và tội phạm. Bởi lẽ:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Theo hồ sơ vụ án thể hiện, sau khi bị cáo đồng ý và thỏa thuận làm giúp các thủ tục giấy tờ sang tên GCNQSDĐ số H009074 từ vợ chồng ông L. sang cho vợ chồng ông K., thời gian thực hiện 3 tháng với chi phí là 20 triệu đồng. Ngày 20/4/2017, vợ chồng ông K. đã đưa cho bị cáo 5 triệu đồng, kèm theo bản gốc GCNQSDĐ số H009074 để bị cáo đi làm thủ tục sang tên cho vợ chồng ông K. Sau khi nhận tiền và GCNQSDĐ của ông K. bị cáo đã nảy sinh ý định làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ mang tên vợ chồng bị cáo để vay tiền ngân hàng. Ngày 11/5/2017 bị cáo đã hoàn tất thủ tục sang tên GCNQSDĐ mang tên vợ chồng bị cáo, đến tháng 8/2017, bị cáo dùng GCNQSDĐ trên để thế chấp vay Ngân hàng 300 triệu đồng. Tuy nhiên, đến ngày 6/11/2017, bị cáo Tuấn Anh tiếp tục tới gặp ông K., nói dối là cần tiền đóng thuế để sang tên GCNQSDĐ cho ông K., làm ông K. tưởng thật và đưa cho bị cáo số tiền là 10 triệu đồng rồi chiếm đoạt tiêu xài cá nhân, đến năm 2019 khi không có tiền trả nợ, bị cáo bỏ trốn.

Như vậy, hành vi của bị cáo nhận 5 triệu đồng để làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ cho ông K., không thực hiện theo đúng thỏa thuận mà dùng thủ đoạn gian dối để chiến đoạt rồi bỏ trốn, đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS.

Đối với số tiền 10 triệu đồng, sau khi sang GCNQSDĐ của ông K. mang tên mình rồi đem thế chấp cho Ngân hàng để vay tiền, thì vào ngày 6/11/2017 bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối, nói dối vợ chồng ông K. đưa tiền để bị cáo đi đóng thuế sang tên, làm ông K. tin tưởng là thật đưa tiếp cho bị cáo 10 triệu đồng, sau đó bỏ trốn. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS.

Về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Ngày 20/4/2017 và ngày 6/11/2017 bị cáo thực hiện 2 hành vi chiếm đoạt tài sản của vợ chồng ông K. với tổng số tiến là 15 triệu đồng, các hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm. Tuy nhiên, đến đầu năm 2019 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của bà D.H. và ông C. với tổng số tiền là 300 triệu đồng.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 27 BLHS thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới (tức là từ năm 2019). Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng cấp sơ thẩm không điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo là bỏ lọt hành vi phạm tội và tội phạm.

Ngày 25/3/2024, tại phiên tòa hình sự phúc thẩm, qua kiểm tra, đối chiếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi công khai tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã khẳng định nội dung kháng nghị nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, từ đó đề nghị và được Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh chấp nhận toàn bộ kháng nghị, hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên của TAND thị xã Buôn Hồ để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung./.

Hải Âu - Lại Tươi