Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án và bản án dân sự sơ thẩm về “Chia tài sản chung của vợ chồng để thi hành án” giữa nguyên đơn: bà Trần Thị Quyền (sinh năm 1968, trú tại TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) và bị đơn, chị Trần Thị L (sinh năm 1985, trú tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), VKSND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành kháng nghị phúc thẩm, TAND tỉnh chấp nhận kháng nghị, hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án.

leftcenterrightdel
 Kiểm sát viên tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự (Ảnh minh hoạ)

Nội dung vụ án: Chị Trần Thị L phải thi hành khoản án phí dân sự sơ thẩm là 20.600.000 đồng và trả nợ cho bà Trần Thị Q số tiền 415.000.000 đồng. Qua xác minh thi hành án cho thấy, chị Trần Thị L và anh Hoàng Văn D có một khối tài sản chung là nhà đất có diện tích 109,4m2 tại xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân. Cơ quan THADS huyện Thọ Xuân đã thông báo cho chị L và anh D về việc thoả thuận phân chia tài sản chung nhưng anh chị không thực hiện.

Do đó, bà Trần Thị Q là người được thi hành án có đơn khởi kiện ra Toà án đề nghị xác định phần sở hữu tài sản của người phải thi hành án là chị Trần Thị L, trong khối tài sản chung của vợ chồng để chấp hành viên làm căn cứ tổ chức thi hành bản án theo quy định của pháp luật.

TAND cấp sơ thẩm đã tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Q về việc xác định và phân chia tài sản chung của vợ chồng chị Trần Thị L và anh Hoàng Văn D. Chị L  và anh D, mỗi người được một nửa giá trị quyền sử dụng đất tại xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân và tài sản trên đất. Giao căn nhà và tài sản trên đất cho anh D tiếp tục quản lý sử dụng. Anh D có trách nhiệm trả lại cho chị L số tiền 593.136.500 đồng để chị L thi hành khoản nợ cho bà Q và án phí dân sự.

Công tác kiểm sát đã phát hiện bản án sơ thẩm tồn tại một số vi phạm nghiêm trọng:

Thứ nhất là, xác định sai quan hệ pháp luật. Theo quy định tại Điều 74, Luật THADS thì vợ chồng anh D, chị L không thỏa thuận phân chia tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên người được thi hành án là bà Trần Thị Q yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu của chị L trong khối tài sản chung của vợ chồng chị L, anh D để thi hành án là đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu của bà Q được xác định là yêu cầu dân sự theo khoản 9 Điều 27 BLTTDS. Do đó, việc bản án sơ thẩm xác định yêu cầu khởi kiện của bà Q là tranh chấp hợp đồng dân sự và quan hệ pháp luật là chia tài sản chung của vợ chồng để thi hành án theo Điều 26 BLTTDS là trái quy định của pháp luật.

Thứ hai, vi phạm về xét xử quá yêu cầu khởi kiện, trong bản án sơ thẩm thể hiện bà Q yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của chị L trong khối tài sản chung của vợ chồng để chấp hành viên làm căn cứ tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi thụ lý giải quyết, TAND huyện Thọ Xuân xác định là chia tài sản chung của vợ chồng và tiến hành thẩm định, định giá khối tài sản chung và phân chia cụ thể phần của từng người được hưởng và quyết định phần án phí mỗi người phải chịu theo giá ngạch là vượt quá yêu cầu khởi kiện.

Mặt khác,  Bản án tuyên giao toàn bộ tài sản cho anh D, anh D có trách nhiệm trả cho chị L số tiền 593.136.500 đồng để chị thi hành khoản nợ cho bà Q và án phí dân sự. Như vậy,  Tòa án sơ thẩm đã chuyển nghĩa vụ phải thi hành bản án mà bà Trần Thị Q là người được thi hành án từ chị Trần Thị L sang cho anh Hoàng Văn D. Đây cũng không phải yêu cầu của bà Trần Thị Q khi khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án.

Ngày 15/01/2024, TAND tỉnh Thanh Hóa đã mở phiên tòa xét xử phúc phẩm, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, tuyên hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án.

Đinh Huê - Tuấn Nguyễn