Ngày 1/6/2023, TAND tỉnh Bắc Giang đã mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn D (SN: 2006, trú tại huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội) do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 23/2/2023 của TAND huyện Hiệp Hoà.
Nội dung vụ án thể hiện, Nguyễn Trung K là đối tượng có nhân thân xấu, do không có tiền chi tiêu nên Nguyễn Trung K đã nảy sinh ý định đăng bán chiếc xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98F1-248.55 trên mạng xã hội Facebook để nếu có người mua K sẽ rủ thêm người đi cùng, khi nhận được tiền bán xe thì sẽ cùng đồng bọn đánh người mua để cướp lại xe. Khoảng 18h30’ ngày 18/10/2022, tại tổ dân phố Trung Đồng, thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, bằng thủ đoạn giả bán xe mô tô, Nguyễn Trung K, Đặng Văn T, Nguyễn Đức L, Đỗ Quốc C, Nguyễn Đức Thành Đ, Phạm Tuấn H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Duy M đã cùng có hành vi sử dụng dao đe doạ, dùng dùi cui và dùng chân tay đánh anh Vũ Nguyễn TA và người đi cùng là anh Nguyễn Đăng H chiếm đoạt của anh Vũ Nguyễn TA số tiền 6 triệu đồng.
Với hành vi phạm tội nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS- ST ngày 23/2/2023, TAND huyện Hiệp Hòa quyết định, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 3 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Sau đó, bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã kết luận và đề nghị HĐXX: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo 3 năm tù về tội “Cướp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
|
|
Quang cảnh phiên toà xét xử một vụ án hình sự. (Ảnh minh hoạ) |
Quan điểm trên của Viện kiểm sát đã được HĐXX chấp nhận. Theo HĐXX phúc thẩm, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình là do ham chơi, bị bạn bè lôi kéo rủ rê, nhận thức việc làm của mình là vi phạm pháp luật, phạm tội đều do hiểu biết pháp luật hạn chế, hành vi của bị cáo chỉ mang tính chất bộc phát, tức thời do bị dụ dỗ, lôi kéo. Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là đúng, không oan sai.
Tại cơ quan điều tra cũng như phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Trong vụ án này, bị cáo là người cầm dùi cui điện đánh bị hại vào phần đầu, tuy nhiên bị cáo không phải là người khởi xướng mà chỉ thực hiện hành vi với vai trò đồng phạm giúp sức, có vai trò ngang nhau với các bị cáo khác mà tòa án cấp sơ thẩm đã cho các bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo thực hiện hành vi khi chưa đủ 18 tuổi và tại thời điểm xét xử phúc thẩm bị cáo vẫn chua đủ 18 tuổi. Do vậy, bị cáo được áp dụng các Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự chương quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Tại phiên tòa bị cáo xuất trình thêm tài liệu mới là ông ngoại bị cáo được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ. Bị cáo hiện vẫn đang là học sinh một trường Cao đẳng tại Hà Nội, đã nộp tiền án phí sơ thẩm. Gia đình luôn thực hiện tốt các quy định, chính sách pháp luật ở địa phương, tích cực tham gia các phong trào của thôn, xóm. Do vậy, áp dụng cho bị cáo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Cũng theo HĐXX phúc thẩm, xét bị cáo có tuổi đời còn trẻ, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi tại phiên tòa xuất trình thêm tình tiết mới, có địa chỉ cư trú rõ ràng. Việc không bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cũng không gây ảnh hưởng xấu trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm, không gây nguy hiểm cho xã hội. Để đảm bảo tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước và tạo cơ hội cho bị cáo được tiếp tục học hành, không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cần áp dụng quy định thủ tục đặc biệt khi xét xử đối với người dưới 18 tuổi quy định tại Điều 90, Điều 91, Điều 101; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Việc cho bị cáo D được hưởng án treo cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, phù hợp hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao và Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Điều 65 Bộ luật Hình sự.