TAND TP Đà Nẵng vừa mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản” giữa nguyên đơn là Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Du lịch CIT (Công ty CIT, trụ sở tại TP Huế) và bị đơn là bà Nguyễn Thị Thanh Giang (trú tại quận Hải Châu, TP Đà Nẵng). Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền hơn 12,5 tỉ đồng, sau đó rút phần yêu cầu bồi thường thiệt hại và giữ lại yêu cầu trả 7,5 tỉ đồng tiền gốc.

Trước đó, như Báo Bảo vệ pháp luật đã phản ánh, vụ án đã được TAND quận Hải Châu, TP Đà Nẵng đưa ra xét xử sơ thẩm. Theo đơn khởi kiện và lời trình bày tại tòa, Công ty CIT cho rằng, đã hai lần cho bà Giang vay tiền theo hình thức tín chấp, gồm: 3,5 tỉ đồng có lãi suất vào ngày 1/11/2010 và 4 tỉ đồng không lãi suất vào ngày 12/1/2011.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh một phiên tòa phúc thẩm liên quan đến Công ty CIT.

Các khoản vay được lập phiếu chi, có chữ ký xác nhận và được hạch toán vào báo cáo tài chính. Do bà Giang không trả nợ khi đến hạn nên Công ty khởi kiện yêu cầu hoàn trả cả gốc và khoản bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn rút yêu cầu bồi thường hơn 5 tỉ đồng và giữ nguyên yêu cầu trả nợ gốc.

Phía bị đơn cùng luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho rằng, không hề phát sinh quan hệ vay mượn giữa hai bên. Việc lập phiếu chi và hồ sơ vay chỉ nhằm hợp thức hóa số liệu tài chính. Báo cáo tài chính từ năm 2010 đến 2014 thể hiện khoản công nợ đã được tất toán. Bị đơn cũng khẳng định, không có chứng cứ nào cho thấy bà từng nhận tiền hay có yêu cầu ứng trước khoản nào từ Công ty CIT.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Sơn – nguyên Phó Tổng giám đốc Công ty CIT xác nhận, trong giai đoạn xảy ra tranh chấp, công ty không giao tiền cho bà Giang. Các hồ sơ vay chỉ là thủ tục xử lý nội bộ.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện VKSND quận Hải Châu, TP Đà Nẵng đánh giá, Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng. Về nội dung, Kiểm sát viên nhận định các hợp đồng vay tiền và phiếu chi do nguyên đơn cung cấp chỉ thể hiện trên giấy tờ, không có chứng cứ cho thấy bị đơn thực tế đã nhận tiền. Hồ sơ vụ án không có tài liệu thể hiện nguyên đơn từng yêu cầu bị đơn thanh toán nợ, không có hoạt động đối chiếu công nợ định kỳ.

Các báo cáo tài chính giai đoạn 2012–2014 do bị đơn cung cấp và được thu thập từ Cục Thuế tỉnh Thừa Thiên Huế thể hiện đến cuối năm 2014, số dư công nợ của bà Giang là 0 đồng. Nguyên đơn và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn cũng thừa nhận các báo cáo tài chính này là chính xác và phù hợp với hồ sơ nộp cơ quan thuế.

Từ những căn cứ nêu trên, đại diện VKSND đề nghị HĐXX đình chỉ phần yêu cầu bồi thường thiệt hại do nguyên đơn rút và không chấp nhận yêu cầu buộc bà Giang trả 7,5 tỉ đồng vì không có cơ sở pháp lý và chứng cứ chứng minh nghĩa vụ trả nợ.

HĐXX nhận định hợp đồng vay tiền giữa Công ty CIT và bà Giang tuy được lập thành văn bản, có phiếu chi và chữ ký xác nhận nhưng nguyên đơn không cung cấp được tài liệu chứng minh khoản tiền 7,5 tỉ đồng thực sự được giao nhận. Việc Công ty CIT không đối chiếu công nợ hàng năm, không có bằng chứng về các lần yêu cầu trả nợ cho thấy quan hệ vay mượn không được duy trì rõ ràng.

Báo cáo tài chính từ năm 2013 đến 2014 thể hiện số dư công nợ giảm dần và được tất toán. Việc nguyên đơn cho rằng đã sử dụng nguồn tạm ứng từ Ban quản lý huyện Nam Giang để xử lý khoản nợ cũng không có tài liệu chứng minh. Do đó, TAND quận Hải Châu quyết định đình chỉ phần yêu cầu bồi thường thiệt hại và bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện còn lại của Công ty CIT, đồng thời chấp nhận toàn bộ quan điểm của đại diện VKSND.

Sau bản án sơ thẩm, vụ án bị kháng cáo. TAND TP Đà Nẵng thụ lý và mở phiên xét xử phúc thẩm theo quy định. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện VKSND TP Đà Nẵng phát biểu quan điểm thống nhất với đại diện VKSND quận Hải Châu đã nêu tại phiên sơ thẩm. Đại diện VKSND TP Đà Nẵng cho rằng những căn cứ mà Công ty CIT đưa ra tại phiên phúc thẩm là bất nhất.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh một phiên tòa rút kinh nghiệm giải quyết các vụ án dân sự phúc thẩm tại Đà Nẵng.

Đáng chú ý, theo diễn biến tại phiên tòa, ngày 12/12/2022, TAND quận Hải Châu ban hành Quyết định số 30/2022/QĐ-CCTLCC yêu cầu Cục Thuế tỉnh Thừa Thiên Huế cung cấp báo cáo tài chính của Công ty CIT. Ngày 6/2/2023, Tòa án nhận được báo cáo tài chính từ Cục Thuế, với số liệu trùng khớp với bản mà bị đơn đã nộp trước đó.

Đặc biệt, phần thuyết minh thể hiện rõ bà Giang nợ 7,5 tỉ đồng theo hợp đồng vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011, nhưng đến cuối năm 2013, đầu năm 2014, đã trả hết. Tuy nhiên, sau khi hai báo cáo tài chính trên thể hiện bà Giang không còn nợ, Công ty CIT lại nộp thêm một bộ báo cáo tài chính khác lập vào năm 2025, thể hiện bà Giang vẫn còn nợ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên dại diện VKSND TP Đà Nẵng bác bỏ tài liệu này. Báo cáo tài chính này được lập sau khi khởi kiện, sau thời điểm Công ty đã bị thanh tra thuế năm 2018, và sau khi cơ quan điều tra thu giữ tài liệu phục vụ vụ án hình sự khác liên quan đến giám đốc Công ty. Từ đây, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, những tài liệu mà Công ty CIT cung cấp là “bất nhất”.

Từ các căn cứ trên, đại diện VKSND TP Đà Nẵng đề nghị HĐXX bác yêu cầu khởi kiện của Công ty CIT như quan điểm của đại diện VKSND quận Hải Châu phát biểu và đã được HĐXX sơ thẩm chấp nhận tại bản án sơ thẩm trước đó.

Xuân Nha