leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên làm việc của Quốc hội sáng 11/12. Ảnh: VPQH 

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, sáng 11/12, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Phục hồi, phá sản.

Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 425/436 đại biểu Quốc hội có mặt tán thành, chiếm 89,85% tổng số đại biểu. Như vậy, với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Phục hồi, phá sản.

Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày Báo cáo tiếp thu, chỉnh lý và giải trình dự án Luật Phục hồi, phá sản.

leftcenterrightdel
 Kết quả biểu quyết. Ảnh: VPQH 

Về tên gọi của Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp thu và chỉnh lý tên gọi của Luật là “Luật Phục hồi, phá sản” theo đa số ý kiến của ĐBQH. Đồng thời, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật khi thay đổi tên gọi của Luật sẽ dẫn tới phải sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, dự thảo Luật đã bổ sung một khoản tại Điều 86 theo hướng bao quát, toàn diện mà không phải rà soát, sửa đổi đối với từng văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.

Về trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm chi phí phá sản và tạm ứng chi phí phá sản (Điều 20), UBTVQH cho biết, thực tiễn giải quyết vụ việc phá sản tại các Tòa án nhân dân cho thấy chi phí phá sản trong trường hợp ngân sách nhà nước bảo đảm là không lớn.

Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn khi xác định nguồn chi trả chi phí phá sản trong các trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản (miễn), tại khoản 3 Điều 20 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng tiền tạm ứng chi phí phá sản sẽ do ngân sách nhà nước bảo đảm đối với trường hợp người nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản là người lao động, công đoàn, cơ quan quản lý thuế, cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản (hoặc còn tài sản nhưng không thanh lý, thu hồi được hoặc còn tài sản nhưng không đủ để nộp tạm ứng chi phí phá sản, thanh toán chi phí phá sản). Tiền tạm ứng chi phí phá sản trong trường hợp này sẽ được hoàn trả ngay vào ngân sách nhà nước khi bán được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

leftcenterrightdel
 Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày Báo cáo. Ảnh: VPQH 

Về trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết, để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đang trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 và nhằm góp phần lành mạnh hóa môi trường đầu tư, kinh doanh, tại khoản 3 Điều 38 của dự thảo Luật đã chỉnh lý như sau: “3. Cơ quan quản lý thuế phải nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của Luật Quản lý thuế. Chính phủ quy định điều kiện nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản.”.

Về thẩm quyền của cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản, dự thảo Luật đã được tiếp thu theo hướng cơ quan bảo hiểm xã hội có quyền nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã khi đã thông báo đôn đốc đối với khoản chậm, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế nhưng không có phản hồi trong 03 năm liên tiếp gần nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.

leftcenterrightdel
 Các đại biểu tham dự Phiên họp. Ảnh: VPQH

Liên quan đến thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản (Điều 16, Điều 41, Điều 60 và Điều 67), UBTVQH đề nghị giữ nguyên quyền kiến nghị, kháng nghị của Viện Kiểm sát như quy định tại các Điều 16, 41, 60 và 67 của dự thảo Luật đã trình Quốc hội vì vẫn bảo đảm quyền kiểm sát của Viện kiểm sát, bảo đảm tính đúng đắn của việc giải quyết vụ việc của Tòa án bằng cơ chế giải quyết kiến nghị; đồng thời, vừa bảo đảm giải quyết vụ việc phá sản nhanh gọn, tiết kiệm chi phí phá sản, nhân lực tham gia theo yêu cầu của Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 88), UBTVQH đề nghị giữ quy định chuyển tiếp đối với vụ việc phá sản đã được thụ lý trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa giải quyết thì được áp dụng quy định của Luật này để bảo đảm đáp ứng yêu cầu tại Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, đồng thời tháo gỡ được điểm nghẽn dẫn đến không giải quyết được các vụ việc đang tồn đọng.

LUẬT PHỤC HỒI, PHÁ SẢN

(DỰ THẢO ĐÃ ĐƯỢC QUỐC HỘI THÔNG QUA SÁNG 11/12/2025)

Điều 16. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản

1. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của Luật này.

2. Viện kiểm sát tham gia các phiên họp giải quyết tranh chấp, xem xét kháng nghị; kiểm sát các quyết định giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản của Tòa án theo quy định của Luật này.

Điều 41. Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản

3. Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản của Tòa án phải được gửi cho người nộp đơn, doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ nợ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân ra quyết định.

4. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, người tham gia thủ tục phá sản có quyền đề nghị xem xét lại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kiến nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.

5. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xem xét lại, kiến nghị, Chánh án Tòa án phải xem xét, giải quyết như sau:

d) Đình chỉ giải quyết đề nghị xem xét lại, kiến nghị, kháng nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản trong trường hợp người đề nghị rút đơn đề nghị, Viện kiểm sát rút kiến nghị.

Điều 60. Giải quyết việc đình chỉ thi hành án dân sự, giải quyết vụ việc

2. Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 59 của Luật này thì sau khi nhận được hồ sơ vụ việc do Tòa án, Trọng tài ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ việc chuyển đến, Tòa án đang tiến hành phá sản phải xem xét, giải quyết như sau:

b) Thẩm phán phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Kiểm sát viên để tham gia phiên họp;

d) Quyết định giải quyết tranh chấp phải được gửi cho Viện kiểm sát, doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản;

đ) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp, hợp tác xã, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến tranh chấp có quyền đề nghị xem xét lại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị Chánh án Tòa án xem xét lại quyết định giải quyết tranh chấp;

e) Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị xem xét lại, kiến nghị, Chánh án Tòa án ra quyết định giữ nguyên quyết định giải quyết tranh chấp của Thẩm phán; sửa quyết định giải quyết tranh chấp của Thẩm phán hoặc đình chỉ giải quyết việc xem xét lại nếu người đề nghị rút đơn đề nghị, Viện kiểm sát rút kiến nghị.

Quyết định của Chánh án Tòa án giải quyết đề nghị xem xét lại, kiến nghị là quyết định cuối cùng. Quyết định này phải được gửi cho doanh nghiệp, hợp tác xã, đương sự, Viện kiểm sát.

Điều 67. Đề nghị xem xét lại, kháng nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản

1. Những người được thông báo quy định tại khoản 6 Điều 65 của Luật này, người khác không phải là người tham gia thủ tục phá sản có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền đề nghị xem xét lại quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Viện kiểm sát kháng nghị quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản trong trường hợp quyết định đó xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước.

2. Thời hạn đề nghị xem xét lại, kháng nghị là 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hoặc được thông báo hợp lệ quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.


Minh Khôi