Giám định ADN bác bỏ quan hệ huyết thống, không có hồ sơ nhận nuôi hợp pháp

Năm 2023, TAND TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (cũ) mở phiên tòa xét xử vụ án “tranh chấp thừa kế tài sản” giữa ông Tôn Thất Phú Lộc (nguyên đơn) và ông Tôn Thất Phú Quý (bị đơn), liên quan đến khối tài sản trị giá hơn 2,9 tỉ đồng mà ông Tôn Thất Lễ để lại sau khi mất.

Vụ án thu hút sự quan tâm tại địa phương do có nội dung phức tạp, xuất phát từ việc ông Tôn Thất Phú Lộc tự cho rằng, mình là “con nuôi” của cụ ông Tôn Thất Lễ và cụ bà Hứa Thị Thúy để yêu cầu được chia di sản thừa kế.

leftcenterrightdel
 Khối tài sản do cụ ông Tôn Thất Lễ và cụ bà Hứa Thị Thúy tạo dựng được, liên quan đến vụ án chia tài sản thừa kế.

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại tòa, ông Tôn Thất Phú Lộc cho rằng, mình được vợ chồng cụ Tôn Thất Lễ và cụ Hứa Thị Thúy nhận nuôi từ nhỏ. Ông Lộc trình bày rằng đã sống cùng gia đình, có thời gian chăm sóc cha mẹ nuôi khi tuổi già nên tin rằng mình có quyền hưởng một phần khối tài sản để lại. Ông cũng cho rằng những người con ruột của ông Tôn Thất Lễ không trực tiếp chăm sóc cha mẹ, trong khi ông gắn bó với gia đình họ từ nhỏ.

Trong quá trình thu thập chứng cứ, Tòa án tiến hành xác minh toàn diện từ dữ liệu hộ tịch, sổ hộ khẩu qua các thời kỳ, lời khai nhân chứng và kết luận giám định ADN. Kết luận giám định số 140/23/TC-AND ngày 24/2/2023 của Viện Pháp y quốc gia xác định, ông Tôn Thất Phú Lộc không có quan hệ huyết thống cha – con với cụ ông Tôn Thất Lễ. Đây là căn cứ khoa học khách quan, có giá trị pháp lý cao.

Để làm rõ khả năng ông Lộc là “con nuôi hợp pháp”, Tòa án yêu cầu ông cung cấp giấy tờ chứng minh việc nhận nuôi, nhưng ông không xuất trình được bất kỳ tài liệu hợp lệ nào. UBND phường Thủy Vân – nơi gia đình cụ Tôn Thất Lễ sinh sống – cũng xác nhận không tồn tại hồ sơ đăng ký nhận con nuôi giữa ông Lễ và ông Lộc.

Sổ hộ khẩu qua nhiều thời kỳ (từ trước năm 1995 đến sau năm 2000) đều không có tên ông Tôn Thất Phú Lộc trong danh sách thành viên gia đình. Cụ bà Hứa Thị Thúy cũng lập vi bằng xác định cụ chỉ có ông Tôn Thất Phú Quý là con đẻ, ngoài ra không có con đẻ hay con nuôi nào khác.

Các nhân chứng sinh sống cùng khu vực trong giai đoạn ông Lộc cho rằng mình “được nuôi” đều khai thống nhất rằng, ông Lộc không ở chung, không được vợ chồng ông Lễ – bà Thúy chăm sóc như con và không được xã, phường xác nhận là con nuôi theo tập quán địa phương. Một số người biết rõ gia đình cho biết ông Lộc chỉ qua lại, hỗ trợ việc nhà trong một số thời điểm nhưng không hề có quan hệ cha – con hoặc quan hệ nuôi dưỡng.

Căn cứ chứng cứ thu thập được, HĐXX nhận định, lời khai của ông Tôn Thất Phú Lộc về việc “được nhận nuôi” không phù hợp thực tế, không thống nhất với tài liệu hộ tịch và không làm phát sinh quan hệ cha – con hoặc cha – mẹ nuôi theo quy định pháp luật. Do vậy, yêu cầu thừa kế của ông không có cơ sở.

Trong khi đó, ông Tôn Thất Phú Quý (bị đơn) được chứng minh là con ruột hợp pháp của ông Tôn Thất Lễ. Ông Quý cung cấp đầy đủ giấy khai sinh, hồ sơ hộ tịch, lời khai nhân chứng và dữ liệu quản lý nhân khẩu, phù hợp với thực tế sinh sống của gia đình qua nhiều năm.

leftcenterrightdel
 Vụ án đã được xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.

Tòa cấp sơ thẩm xác định hàng thừa kế và kết luận ông Tôn Thất Phú Lộc không có quyền thừa kế di sản của cụ ông Tôn Thất Lễ. Ông Tôn Thất Phú Quý, con đẻ hợp pháp của cụ Tôn Thất Lễ và cụ Hứa Thị Thúy, được giao quản lý thửa đất do cha mẹ tạo dựng và để lại gồm đất vườn, đất ở với tổng diện tích 2.091,1m² tại TP Huế, tổng giá trị hơn 2,9 tỉ đồng.

Cấp phúc thẩm căn cứ bản án ly hôn năm 1984 để chia đôi tài sản

Sau khi bản án sơ thẩm được tuyên, ông Tôn Thất Phú Lộc kháng cáo, yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm chia ½ tài sản thừa kế trong khối tài sản của cụ ông Tôn Thất Lễ và cụ bà Hứa Thị Thúy.

Xét xử phúc thẩm, TAND TP Huế (sau sáp nhập) tiếp tục xác định ông Tôn Thất Phú Lộc không phải con đẻ theo giám định ADN và không phải con nuôi vì không có giấy tờ chứng minh hợp pháp.

Tuy nhiên, HĐXX TAND TP Huế vẫn xem xét cho ông Tôn Thất Phú Lộc được hưởng một phần tài sản thừa kế. Lý do là trong hồ sơ ly hôn năm 1984, gồm đơn thỏa thuận ly hôn ngày 6/9/1984 và biên bản lấy lời khai ngày 5/12/1984, cụ bà Hứa Thị Thúy và cụ ông Tôn Thất Lễ đều khai nhận có hai con chung gồm: ông Tôn Thất Phú Quý (SN 1968) và ông Tôn Thất Phú Lộc (SN 1969).

Nội dung này được Tòa án công nhận trong Bản án ly hôn số 99/ST-LH ngày 7/12/1984 của TAND quận 3, TP Hồ Chí Minh, trong đó giao cả hai con chung, trong đó có ông Lộc cho bà Thúy trực tiếp nuôi dưỡng, còn cụ Lễ có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi tháng 50 đồng cho từng con.

Từ nhận định này, Bản án phúc thẩm số 09/2025 ngày 25/2/2025 TAND TP Huế tuyên chấp nhận kháng cáo của ông Tôn Thất Phú Lộc, cho ông được hưởng 1.011,1 m² đất trong tổng số 2.091,1 m² đất do cụ Tôn Thất Lễ và cụ Hứa Thị Thúy tạo lập.

Điểm gây băn khoăn trong vụ việc là mặc dù giám định ADN khẳng định ông Tôn Thất Phú Lộc không phải con đẻ và hồ sơ không thể hiện việc cụ Tôn Thất Lễ từng nhận nuôi ông Lộc theo thủ tục pháp luật, nhưng Tòa vẫn căn cứ Bản án ly hôn số 99/ST-LH ngày 7/12/1984 của TAND quận 3, TP Hồ Chí Minh để chia cho ông một phần tài sản.

Trong hồ sơ ly hôn, cả cụ Lễ và bà Hứa Thị Thúy khai nhận ông Lộc và ông Tôn Thất Phú Quý là con chung. Việc ghi nhận “con chung” trong bản án ly hôn khiến Tòa cấp hiện nay cho rằng giữa cụ Lễ và ông Lộc tồn tại mối quan hệ thực tế về chăm sóc, nuôi dưỡng, trong khi về mặt pháp lý, quan hệ cha – con không được xác lập theo Bộ luật Dân sự và Luật Nuôi con nuôi.

leftcenterrightdel
  Cụ bà Hứa Thị Thúy cũng lập vi bằng xác định cụ chỉ có ông Tôn Thất Phú Quý là con đẻ, ngoài ra không có con đẻ hay con nuôi nào khác. (Ảnh chụp từ vi bằng).

Việc sử dụng bản án ly hôn làm căn cứ chia tài sản cho một người không thuộc hàng thừa kế đặt ra nhiều băn khoăn pháp lý. Bản án ly hôn chỉ phản ánh lời khai của đương sự về con chung, không phải căn cứ xác lập quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án ly hôn cũng không đồng nghĩa với quyền thừa kế, bởi hai chế định này hoàn toàn độc lập.

Do đó, việc Tòa cho rằng mối quan hệ thực tế được hình thành trong quá khứ đủ để xem xét chia tài sản cho ông Lộc có thể dẫn đến nguy cơ mở rộng phạm vi người được hưởng di sản ngoài khung pháp luật, ảnh hưởng quyền lợi của người thừa kế hợp pháp là ông Tôn Thất Phú Quý.

Dư luận đặt câu hỏi, liệu việc dựa vào bản án ly hôn năm 1984 để chia di sản có phù hợp hay không khi căn cứ pháp lý về thừa kế và nuôi con nuôi đều không được đáp ứng?.

Xuân Nha