Trước đó, bà Vũ Thị Vượng đã có rất nhiều đơn đề nghị, đơn kiến nghị, đơn khiếu nại, tố cáo gửi đến các ngành chức năng, các cấp chính quyền quận Kiến An và Tp Hải Phòng. 
 
UBND Tp Hải Phòng đã 03 lần có CV số 4397/UBND-ĐC ngày 01/8/2011, số 4468/UBND-ĐC2 ngày 24/6/2013 và số 3880/UBND-ĐC2 ngày 04/6/2014 “… Giao Chủ tịch UBND quận Kiến An khẩn trương chỉ đạo kiểm tra, giải quyết dứt điểm, giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, trả lời bà Vũ Thị Vượng, báo cáo kết quả về UBND Thành phố …”. 
 
Đến ngày 18/9/2014 UBND quận Kiến An mới ra quyết định số 911/QĐ-UBND thành lập Đoàn thanh tra nguồn gốc sử dụng đất của hai hộ ông Việt, bà Vượng và đến ngày 26/8/2015 (sau một năm) mới có Kết luận thanh tra số 03/KL-UBND (KLTTr số 03) cho rằng khe đất 3,54m2 giữa hai nhà ông Việt và bà Vượng là đất công, giao cho UBND phường Lãm Hà quản lý. 
 
Tuy nhiên, toàn bộ hồ sơ, tài liệu do chính Thanh tra quận Kiến An xác minh, thu thập đã được phản ánh trong bản KLTTr số 03 ngày 26/8/2015 do Chủ tịch UBND quận Kiến An, Trần Văn Quý ký lại thể hiện: Khe đất 3,54m2 giữa 2 nhà ông Việt, bà Vượng không phải là đất công. Ngay từ năm 1982 - 1983 khu Đầm Sen, xã Đồng Hòa, Nhà nước đã cấp hết đất cho các hộ dân làm nhà ở, giáp ranh giữa các hộ là đường thẳng, không để lại khe hở nào làm đất công. Giáp ranh giữa hộ bà Vượng và hộ ông Việt được thể hiện bởi Bìa đỏ của ông Sơn (nay là bà Vượng) và Bìa đỏ của ông Việt là một đường kẻ thẳng, không hề có khe hở nào làm đất công, đây là chứng cứ pháp lý, không ai có thể phủ nhận được. Cũng như toàn bộ hồ sơ do chính Thanh tra quận Kiến An xác minh, thu thập không có tài liệu nào nói khe hở giữa 2 nhà ông Việt và bà Vượng là đất công.
 
Khe đất 3,54m2 không những nằm ngoài Bìa đỏ số 1634/CNSH của ông Việt có chiều rộng mặt đường 4,85m mà còn nằm ngoài hiện trạng thửa đất ông Việt đang sử dụng có chiều rộng mặt đường 5,25m; không tính chiều rộng khe đất giáp nhà bà Vượng thì đất của ông Việt, chiều rộng mặt đường vẫn thừa ra 0,40m so với giấy tờ được cấp. 
 
KLTTr số 03 đã nêu rõ: nguồn gốc đất của hộ ông Việt là đất của bà Mùi được cấp diện tích 120 m2, bà Mùi bán cho ông Uyển, ông Uyển bán cho ông Vịnh, ông Vịnh bán cho ông Quê, ông Quê bán cho ông Việt. Nhưng ông Việt đã làm tắt thủ tục chuyển nhượng từ bà Mùi sang tên mình và được cấp GCN số 972/CNSH ngày 22/3/1993 nâng diện tích lên 127,45 m2. Sau đó, ông Việt ngụy tạo ra việc tranh chấp với hộ ông Tuyết (liền kề) và được cấp GCN số 1634/CNSH ngày 27/8/1994 nâng diện tích lên 144m2. Đến năm 1997, không rõ lấy đâu ra thêm đất, ông Việt kê khai đứng tên thửa đất số 108 diện tích 165,40m2. Tiếp theo, ông Việt lại ngụy tạo ra việc tranh chấp với hộ ông Quỳnh (liền kề)  nâng diện tích lên 201,20 m2. So với giấy tờ được cấp, hiện trạng đất của ông Việt thừa ra rất nhiều (Từ 120m2 - 127,45m2 - 144m2 - 165,40m2 - 201,20m2). Vì vậy, khe đất 3,54m2 trên không phải là đất của ông Việt.
 
Ông Trần Văn Quý, Chủ tịch UBND quận Kiến An đã ban hành KLTTr số 03 ngày 26/8/2015 và văn bản số 926 ngày 09/9/2015 giao cho UBND phường Lãm Hà yêu cầu ông Việt tháo dỡ hố ga và ống nước đã lắp đặt trái phép vào khe đất 3,54 m2 giữa 2 nhà ông Việt, bà Vượng. UBND phường Lãm Hà đã lập biên bản yêu cầu ông Việt tháo dỡ nhưng ông Việt không thực hiện. 
 
Nhưng không hiểu sao, đến ngày 15/6/2016 ông Trần Văn Quý lại ký văn bản số 02/KL-UBND cho phép ông Việt giữ nguyên hiện trạng. Như vậy, cách giải quyết của ông Trần Văn Quý, Chủ tịch quận “tiền, hậu bất nhất” lại làm cho 2 hộ tiếp tục khiếu kiện. Cực chẳng đã, ngày 06/9/2016, bà Vượng buộc lòng phải làm đơn khởi kiện ông Trần Văn Quý ra tòa, yêu cầu TAND Tp Hải Phòng hủy một phần KLTTr số 03/KL-UBND có nội dung “khe đất 3,54m2 giữa 2 hộ bà Vượng, ông Việt là đất công, giao cho UBND phường Lãm Hà quản lý” và công nhận khe đất này thuộc quyền sử dụng của gia đình bà Vượng. Một việc tranh chấp rất nhỏ giữa 2 gia đình ông Việt, bà Vượng từ năm 2003 đến nay là 14 năm, UBND quận Kiến An không giải quyết nổi, nay bà Vượng phải khởi kiện ra tòa.
 
Theo Luật sư Trần Hồng Lĩnh, Đoàn luật sư TP Hải Phòng: Khe đất 3,54m2 chéo méo nói trên chính là đất của bà Vượng, bởi: “KLTTr số 03 của UBND quận Kiến An (tại tr 5, tr 6) đã nêu rõ: Hiện trạng nhà đất bà Vượng đang sử dụng gồn 2 thửa: thửa 109 mang tên ông Sơn, thửa 110 mang tên ông Quê. Năm 2001 ông Sơn và ông Quê chuyển nhượng cho ông Quỳnh cả 2 thửa số 109 và 110 có chiều rộng mặt đường 5,90 m, đến năm 2003 ông Quỳnh chuyển nhượng lại cho bà Vượng 2 thửa đất trên đều có chứng thực của UBND phường Quán Trữ. Ngày 09/12/2016 Tổ công tác của UBND quận Kiến An kiểm tra lại hiện trạng đất của bà Vượng đang sử dụng có chiều rộng mặt đường là 5,70m, nếu cộng cả chiều rộng khe đất đang tranh chấp thì đất bà Vượng vẫn còn thiếu 5 cm.
 
Ngày 29/11/2014 bà Lê thị Thu Nhàn, Chánh Thanh tra Quận đã chủ trì cuộc họp lấy ý kiến Tổ dân phố 20 phường Lãm Hà. Các hộ dân thống nhất khảng định: phần khe hở giữa nhà ông Việt và bà Vượng là đất của ông Sơn, ông Quê chuyển nhượng cho ông Quỳnh chuyển nhượng lại cho bà Vượng. Như vậy, khe đất 3,54 m2 giữa 2 nhà ông Việt và bà Vượng không phải là đất công, cũng không phải đất của ông Việt mà chính là đất của bà Vượng.
 
Nguyên nhân phát sinh tranh chấp được xác định theo hồ sơ, tài liệu do Thanh tra quận Kiến An xác minh thu thập: Năm 2001, khi ông Quỳnh tiến hành xây dựng nhà thì vào ban đêm, ông Việt đạp mái tôn thò sang đất của ông Quỳnh rồi lấy cớ để tranh chấp, ông Quỳnh đã phải bỏ ra 03 triệu đồng đền bù mái tôn gẫy cho ông Việt. Năm 2003 ông Quỳnh chuyển nhượng nhà đất cho bà Vượng, khi ông Quỳnh chuyển đi, bà Vượng chưa chuyển đến thì ông Việt xây gạch Bapanh chặn ngang cuối thửa của bà Vượng, bà Vượng phải bỏ ra 03 triệu đồng cho ông Việt thì ông Việt mới dỡ gạch Bapanh đi.
 
Ngày 10/3/2010 bà Vượng nộp hồ sơ xin cấp giấy CNQSDĐ, bộ phận một cửa viết giấy biên nhận hồ sơ, hẹn ngày 12/5/2010 trả kết quả nhưng để mãi đến ngày 22/11/2012 (2 năm sau) Văn phòng ĐKQSDĐ lại có công văn số 106/VPĐK nói bà Phương (Việt) có đơn đề nghị dừng việc cấp giấy CNQSDĐ do hai gia đình đang có tranh chấp về mốc giới. Đơn của bà Phương (Việt) là hoàn toàn không có căn cứ, vì KLTTr số 03 đã nêu rõ đất của ông Việt thừa ra rất nhiều so với Bìa đỏ được cấp. 
Bà Vượng cho rằng, lẽ ra UBND quận Kiến An phải cấp Bìa đỏ cho bà Vượng mà không cần ông Việt ký giáp ranh vì đất của ông Việt (thửa 108) đã được cấp Bìa đỏ, tức là ranh giới, mốc giới đã được xác định rồi. Hơn nữa, việc cấp Bìa đỏ cho bà Vượng (thửa 109) thực chất là đổi từ Giấy cấp đất làm nhà ở (mẫu cũ) sang GCN theo mẫu mới và xét cấp giấy GCN cho bà Vượng thửa 110 theo khoản 1; 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai 2003. Nhưng không hiểu sao ông Quý lại dựa vào đơn yêu cầu vô căn cứ của ông Việt để dừng việc cấp Bìa đỏ cho bà.
 
Theo khoản 1 Điều 136 Luật đất đai 2003: việc giải quyết tranh chấp đất đai có Bìa đỏ thuộc thẩm quyền của Tòa án, đất của ông Việt (thửa 108), đất của ông Sơn nay là bà Vượng (thửa 109) đều có Bìa đỏ. Nhưng không hiểu sao ông Quý vẫn nhận thụ lý giải quyết đơn của ông Việt để rồi ra Kết luận số 02/KL-UBND ngày 15/6/2016 giữ nguyên hiện trạng (bảo tồn) hành vi vi phạm của ông Việt?
 
P.V