Nội dung vụ án thể hiện, Bùi Thị Thùy Dung không có chức năng tuyển dụng nhưng khi biết được ông Đỗ Tiến Khoa có mong muốn xin cho con trai vào Kho bạc nhà nước huyện Tân Lạc và con dâu vào làm giảng viên trường Cao đẳng kinh tế kĩ thuật, Bùi Thị Thuỳ Dung đã trao đổi với Hoàng Thị Hương về việc chạy việc cho con trai và con dâu ông Khoa. Qua trao đổi, Hương bảo chi phí khoảng 200-250 triệu đồng để xin vào Kho bạc nhà nước và chi phí khoảng 150-180 triệu đồng để xin vào ngành giáo dục.
Sau khi Hương và Dung thống nhất số tiền để chạy việc. Dung trực tiếp gặp ông Khoa và trao đổi với ông Khoa chi phí để xin vào kho bạc là 300 triệu đồng và 270 triệu đồng để xin vào ngành giáo dục. Ông Khoa đồng ý và đưa cho Dung tổng số tiền là 570 triệu đồng. Ông Khoa và Dung thống nhất viết hai giấy biên nhận tiền, một giấy ghi Dung nhận 300 triệu đồng và một giấy ghi Dung nhận 270 triệu đồng, lý do vay tiền của ông Khoa để giải quyết việc cá nhân.
Sau khi nhận tiền từ ông Khoa, Dung đã chuyển tổng số tiền cho Hương là 417 triệu đồng qua nhiều lần và nhiều hình thức khác nhau. Còn lại 153 triệu đồng Dung giữ lại chi tiêu cá nhân và không nói cho Hương biết cụ thể. Sau gần 1 năm, con trai và con đâu ông Khoa không được trúng tuyển để đi làm, ông Khoa đã làm đơn tố cáo Bùi Thị Thuỳ Dung đến cơ quan điều tra để xử lý theo pháp luật.
|
|
Các bị cáo trong vụ án "Lừa đào chiếm đoạt tài sản" (Ảnh minh họa) |
Quá trình giải quyết vụ án cho thấy, tại Kết luận điều tra số 29/KLĐT-CQĐT-PC02 ngày 1/7/2019 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B đề nghị truy tố bị can Hoàng Thị Hương và Bùi Thị Thùy Dung về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999, nay là điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS 2015.
Cáo trạng số 35/CT-VKS-P2 ngày 23/8/2019 của VKSND tỉnh B truy tố bị can Hoàng Thị Hương, Bùi Thị Thùy Dung về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HS-ST ngày 3/12/2019 của TAND tỉnh B căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 38 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Hoàng Thị Hương 9 năm tù; xử phạt bị cáo Bùi Thị Thùy Dung 7 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Hoàng Thị Hương không kháng cáo, bị cáo Bùi Thị Thùy Dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Dung rút kháng cáo nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 160 ngày 7/7/2020.
Theo VKSND cấp cao tại Hà Nội, trong vụ án trên, vấn đề cần rút kinh nghiệm, đó là việc xác định số tiền chiếm đoạt để áp dụng khung hình phạt đối với bị cáo Hương. Cụ thể, trong vụ án này, bị cáo Dung là người trực tiếp liên hệ và nhận tiền từ ông Khoa để hứa hẹn xin việc cho con ông Khoa với tổng số tiền là 570 triệu đồng. Tuy nhiên, khi Dung trao đổi với Hương về xin việc, chỉ trao đổi về trường hợp xin vào Kho bạc thì chi phí từ 200-250 triệu đồng/suất và chi phí khoảng 150-180 triệu đồng/suất để xin vào ngành giáo dục.
Hương không biết Dung nhận từ ông Khoa bao nhiêu tiền và thực tế Hương chỉ nhận 417 triệu đồng từ Dung, nên Hương chỉ phạm tội theo khoản 3 Điều 174 BLHS 2015, nhưng Cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS để truy tố, xét xử đối với bị cáo Hoàng Thị Hương là không đúng qui định pháp luật, gây bất lợi cho bị cáo.
Tuy nhiên, với mức án 9 năm tù đối với bị cáo Hoàng Thị Hương là phù hợp, nằm trong khoản 3 Điều 174 BLHS có mức hình phạt từ 7-15 năm tù nên VKSND cấp cao tại Hà Nội xét thấy không cần thiết kháng nghị giám đốc thẩm.