TAND cấp cao tại Hà Nội vừa đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Lê Đình T (SN: 2006, cư trú tại huyện Y, tỉnh Thanh Hóa) do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 121/2024/HS-ST ngày 2/7/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa (Bản án số 121/2024/HS-ST).

Theo nội dung vụ án, bị cáo Lê Đình T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh người là vi phạm pháp luật. Bị cáo đồng tình với các bị cáo khác trong việc gọi anh H đến để giải quyết mâu thuẫn và không có ý thức tước đoạt tính mạng H, nhưng thống nhất trong hành động (phân công vị trí) làm sao bắt giữ được H khi H đến nên phải chịu chung về hậu quả xẩy ra.

Việc Nguyễn Văn M dùng chân đạp vào xe máy đang chạy tốc độ nhanh và Trần Tuấn A dùng chân đá vào vùng đầu là vùng nguy hiểm có khả năng làm chết người và hậu quả là H đã chết là kết quả tất yếu do hành vi của các bị cáo gây ra.

Tại Bản án số 121/2024/HS-ST, Tòa án đã xử phạt bị cáo Lê Đình T về tội "Giết người" theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo 8 năm 6 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù của Bản án trước đó, bị cáo Lê Đình T phải chấp hành hình phạt chung là 10 năm tù.

Sau đó, người đại diện hợp pháp cho bị cáo kháng cáo bản án sơ thẩm, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên toà xét xử một vụ án hình sự. (Ảnh minh hoạ)

Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện cấp cao 1 đã phát biểu quan điểm cho rằng, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như kết quả tranh luận tại phiên tòa thấy có đủ căn cứ kết tội bị cáo như bản án sơ thẩm đã tuyên; tại phiên tòa bị cáo thành thật khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo xuất trình thêm được giấy xác nhận gia đình bị cáo có thân nhân là liệt sĩ, bị cáo có ủng hộ xây nhà ở cho hộ nghèo ở địa phương nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị cáo. Do đó, đề nghị HĐXX căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị cáo, sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm.

Quan điểm trên của đại diện Viện cấp cao 1 đã được HĐXX chấp nhận. Theo Toà án cấp phúc thẩm, khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo Lê Đình T có nhân thân xấu (phạm tội trong thời gian thử thách); khi nghe các bị cáo khác gọi điện để đi đánh nhau thì bị cáo đồng ý ngay và rủ thêm người khác cùng đi, cùng thống nhất thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo thực hiện theo sự sắp xếp nấp chờ H đến để đánh H; tuy bị cáo chưa đánh H nhưng hành vi của bị cáo là chủ động, tích cực có tác động giúp sức để các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả không mong muốn là cái chết của H. 

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có tham gia đưa H đến Trạm y tế xã để cấp cứu; khi biết H chết, bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình đã bồi thường dân sự khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại 40 triệu đồng; cùng các bị cáo khác tác động gia đình hỗ trợ tiền mai táng phí cho gia đình bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. 

Bị cáo có ông nội được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất, bà nội được Huân chương kháng chiến hạng ba trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, và bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng các quy định tại Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo để xử phạt bị cáo 8 năm 6 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo tỏ ra rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong muốn Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và hứa quyết tâm cải tạo để sớm được về với gia đình và hòa nhập với xã hội. Xét thấy, bị cáo tuổi đời còn trẻ, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế; phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn; việc bị hại chết nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo; bị cáo cũng đã tích cực cùng các bị cáo khác đưa bị hại cấp cứu và đến đầu thú khi biết tin bị hại chết; gia đình bị hại cũng đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp cho bị cáo xuất trình thêm giấy xác nhận gia đình bị cáo có thân nhân là liệt sĩ, bị cáo có ủng hộ xây nhà ở cho hộ nghèo ở địa phương; để động viên bị cáo tích cực cải tạo để sớm trở thành người lương thiện, HĐXX thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo Lê Đình T.

Kết quả, HĐXX đã sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 121/2024/HS-ST về phần hình phạt. Theo đó, đã xử phạt bị cáo Lê Đình T 8 năm tù; tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù của Bản án số 21/2023/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 9 năm 6 tháng tù.

P.V