Chỉ thị nêu rõ, thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân xác định công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (vụ án hành chính, vụ việc dân sự) là công tác trọng tâm, đột phá. Theo quy định mới của pháp luật, toàn Ngành đã nỗ lực thực hiện và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Cụ thể là: Các văn bản tố tụng của Tòa án được kiểm sát chặt chẽ từ khi nhận đơn khởi kiện; chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa có chuyển biến rõ rệt; vi phạm, thiếu sót của Tòa án và các cơ quan, tổ chức có liên quan cơ bản được phát hiện kịp thời, chính xác; kháng nghị, kiến nghị tăng cả về số lượng và tỷ lệ được chấp nhận; chú trọng kiến nghị phòng ngừa; qua đó đã tạo được sự tin cậy đối với cấp ủy, chính quyền các cấp và lòng tin của nhân dân...
Bên cạnh những chuyển biến tích cực nêu trên vẫn còn ở một số cơ quan, đơn vị chưa tích cực yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để có cơ sở giải quyết vụ, việc từ cấp sơ thẩm; chưa phát hiện hoặc phát hiện không chính xác vi phạm; tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm còn thấp trong số bản án, quyết định bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy án, sửa án; vẫn còn kháng nghị phải rút hoặc không được chấp nhận...
Nguyên nhân chính là do vụ án hành chính, vụ việc dân sự ngày càng tăng và phức tạp hơn trong khi công tác kiểm sát này còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức cả về số lượng, chất lượng của đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác này; công tác bồi dưỡng, phân công kèm cặp chưa tốt; quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Tòa án chưa hiệu quả...
|
|
Quang cảnh một phiên toà xét xử vụ án dân sự. |
Do đó, Viện trưởng VKSND tối cao yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp huyện tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ, biện pháp sau đây:
1. Quán triệt và chỉ đạo toàn thể Kiểm sát viên, công chức làm công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự tiếp tục thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của VKSND theo quy định của pháp luật hiện hành, quy định và quy chế nghiệp vụ của Ngành; khẳng định công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự vẫn là công tác trọng tâm, chủ đạo của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong thời gian tới.
2. Viện trưởng VKSND các cấp trực tiếp chỉ đạo công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự; thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật; tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp để khắc phục triệt để tồn tại, hạn chế; chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND cấp trên trực tiếp và Viện trưởng VKSND tối cao về chất lượng khâu công tác này của Viện kiểm sát cấp mình.
3. Lựa chọn, bố trí, đào tạo, tự đào tạo đội ngũ Kiểm sát viên có bản lĩnh, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ đảm nhiệm khâu công tác này. Có kế hoạch xây dựng đội ngũ công chức bảo đảm đáp ứng được yêu cầu công việc, ổn định, có tính kế thừa. Chỉ luân chuyển, điều động Kiểm sát viên giỏi của khâu công tác này khi đã có nhân sự có năng lực tương đương thay thế; Kiểm sát viên giỏi, có nguyện vọng được gắn bó lâu dài với công tác này thì xem xét chưa luân chuyển, điều động. Trường hợp điều kiện, tiêu chuẩn tương đương thì ưu tiên chọn Kiểm sát viên, công chức làm công tác kiểm sát án hành chính, dân sự để quy hoạch, bổ nhiệm. Từng bước xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi trong công tác này ở Viện kiểm sát các cấp.
Tiếp tục sắp xếp bộ máy kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; hướng đến tổ chức bộ máy chuyên sâu theo loại án ở những nơi có số lượng án nhiều và đủ nhân lực.
4. Kiểm sát viên, công chức nắm chắc quy định của pháp luật, của Ngành liên quan đến công tác, áp dụng đầy đủ, chính xác trong những vụ, việc mình đang giải quyết. Trong thực thi nhiệm vụ phải luôn có tinh thần thượng tôn pháp luật, có ý thức giữ gìn uy tín, hình ảnh của Ngành; dám bảo vệ cái đúng, đấu tranh với cái sai, có tinh thần vượt khó để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mỗi Kiểm sát viên, công chức không những phải làm tốt công việc của mình mà còn có trách nhiệm góp phần đào tạo cán bộ trẻ, kế cận.
5. Bảo đảm thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu đánh giá kết quả công tác theo yêu cầu của Quốc hội và VKSND tối cao, chỉ tiêu nào không đạt phải báo cáo rõ lý do và có biện pháp khắc phục ngay; việc thực hiện chỉ tiêu phải thực chất, tránh hình thức. Quá trình thực hiện nhiệm vụ và khi áp dụng pháp luật phải đặt lợi ích của Nhà nước, của nhân dân lên trên hết, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ, thống nhất.
Toàn Ngành tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể sau:
5.1. Tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật; tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ hợp lý, khoa học bảo đảm Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp có chất lượng; những vụ, việc Tòa án không chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát mà không đúng pháp luật thì phải được xem xét kháng nghị, đề nghị kháng nghị ngay. Khi giải quyết các vụ, việc có yếu tố nước ngoài, cần lường trước khả năng có thể dẫn đến tranh chấp quốc tế hoặc ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao để báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên.
5.2. Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nhiệm vụ nêu tại Chỉ thị số 07/CT- VKSTC ngày 6/8/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao về “Tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hành chính, vụ việc dân sự”. Khắc phục triệt để tình trạng phát hiện được vi phạm mà không còn thời hạn kháng nghị; phải rút kháng nghị do kháng nghị thiếu căn cứ, do nhận thức, áp dụng pháp luật không chính xác; sau khi Viện kiểm sát rút kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án do có kháng cáo của đương sự lại chấp nhận nội dung kháng cáo mà nội dung đó đã được nêu trong kháng nghị bị rút. Viện kiểm sát cấp trên chịu trách nhiệm trong trường hợp rút kháng nghị hoặc không chấp nhận đề nghị kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới mà không đúng.
5.3. Vi phạm trong hoạt động tư pháp chưa đến mức phải kháng nghị thì phải xem xét để kiến nghị. Qua công tác kiểm sát mà phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý của các cơ quan, tổ chức thì phải kiến nghị phòng ngừa, khắc phục. Việc kiến nghị được thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và pháp luật khác có liên quan. Theo dõi kết quả giải quyết kiến nghị, đối với kiến nghị không được trả lời hoặc tiếp thu phải được đôn đốc, trao đổi, thông báo đến cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cơ quan, tổ chức bị kiến nghị, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên hoặc có biện pháp phù hợp khác.
5.4. Nâng cao năng lực, kỹ năng phát hiện vi phạm qua kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa, phiên họp cần có biện pháp nhanh chóng tiếp cận với hồ sơ vụ án, bản án, quyết định để kiểm sát kịp thời.
|
|
Công chức, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát. (Ảnh minh hoạ: Nguồn BVPL) |
6. Tiếp tục theo dõi, quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ; kịp thời biểu dương các điển hình tiên tiến; đồng thời phát hiện hạn chế, khó khăn để có giải pháp khắc phục. Định kỳ sơ kết, tổng kết hoạt động thực tiễn; tăng cường phổ biến các sáng kiến, kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ; rút kinh nghiệm cả những việc làm tốt và tồn tại, hạn chế trong nội bộ đơn vị và Viện kiểm sát cấp dưới.
7. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý và hoạt động nghiệp vụ, bảo đảm đạt và vượt các chỉ tiêu theo “Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Áp dụng ngay phương pháp sơ đồ tư duy trong nghiên cứu hồ sơ, báo cáo án.
8. Viện kiểm sát chủ động phối hợp với Tòa án, các cơ quan nhà nước cùng cấp có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ ban hành các quy chế phối hợp. Tham mưu tích cực, có chất lượng cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai hoặc các việc khác khi được đề nghị.
9. Vụ 9, Vụ 10, Vụ 14 VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình kịp thời trả lời thỉnh thị, tăng cường hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ và pháp luật cho Viện kiểm sát cấp dưới, đặc biệt đối với các việc mới theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, Pháp lệnh Trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm 2022, việc Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trực tuyến...; chủ động đề xuất việc phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, cơ quan hữu quan khác xây dựng văn bản hướng dẫn, tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ.
10. Vụ Tổ chức cán bộ, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP Hồ Chí Minh chủ động phối hợp với Vụ 9, Vụ 10, Vụ 14 VKSND tối cao xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho Kiểm sát viên, công chức trong toàn Ngành. Chú trọng tập huấn, đào tạo bổ sung kiến thức về quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan mật thiết đến công tác; nâng cao hiểu biết của Kiểm sát viên, công chức về pháp luật, tập quán quốc tế.
11. Cục 2 VKSND tối cao hỗ trợ, hướng dẫn VKSND các cấp thực hiện nhiệm vụ nêu tại Mục 7 Chỉ thị này.
Các cơ quan báo chí, Trang thông tin điện tử trong Ngành đẩy mạnh tuyên truyền về kết quả, ý nghĩa của công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự; mở chuyên trang, chuyên mục về trao đổi kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm thực tiễn; đăng tải các thông báo rút kinh nghiệm, các quyết định kháng nghị giám đốc thẩm có chất lượng tốt, đã được Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận... để toàn Ngành tham khảo.
12. Thủ trưởng các đơn vị các cấp Viện kiểm sát có chức năng, nhiệm vụ liên quan khâu công tác này tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị.
Vụ 9, Vụ 10 phối hợp với Văn phòng, Thanh tra VKSND tối cao giúp Viện trưởng VKSND tối cao theo dõi, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Chỉ thị này.
Chỉ thị này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký, thay thế Chỉ thị số 04/CT- VKSTC ngày 22/3/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao.