Trước đó, UBND thị trấn C là chủ đầu tư Dự án khu dân cư thị trấn, Nguyễn Ngọc Đ là Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND thị trấn (là người đại diện theo pháp luật). Với mục đích để cho Phạm Văn T mua được toàn bộ các lô đất của Dự án khu dân cư sắp được đưa ra đấu giá, Đ đồng ý cho T thực hiện việc ngăn cản khách đến mua hồ sơ đấu giá đất. 

leftcenterrightdel
 Hình ảnh phiên tòa hình sự phúc thẩm.

T đã tổ chức nhiều cuộc họp để phân công nhiệm vụ và trực tiếp chỉ đạo 25 bị cáo khác mang tiểu sành đặt tại cổng Hội trường UBND thị trấn, đưa xe tải, máy xúc, biển cảnh báo, rào chắn ra chặn các đoạn đường dẫn đến trụ sở UBND thị trấn; tạo va chạm giao thông với người mua được hồ sơ đấu giá, nhằm tạo áp lực buộc người đã mua bán lại hồ sơ; tụ tập, thị uy, khóc lóc gây huyên náo tại địa điểm bán hồ sơ và khu đất dự án, đưa ra thông tin đất của Dự án có nhiều mồ mả.

Trong thời gian này, Nguyễn Ngọc Đ đã không lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội tại địa phương; còn đồng thuận, bao che cho T cùng đồng phạm gây rối, cản trở người mua hồ sơ tham gia đấu giá quyền sử dụng đất thuộc Dự án. Việc làm trên của các bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương; ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, công dân; gây cản trở giao thông; làm cho hoạt động đấu giá đất dự án phải tạm ngừng, tạo ra dư luận rất xấu trong xã hội.

Sau khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đ và luật sư bào chữa cho rằng, bị cáo Đ chỉ phạm tội Gây rối trật tự công cộng, không phạm tội Lợi dụng, chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ; bị cáo Vũ Văn H cho rằng bị cáo bị oan, không phạm tội Gây rối trật tự công cộng. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án đã chủ động nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tài liệu chứng cứ, chuẩn bị những tình huống đối đáp với luật sư, các bị cáo; chủ động tham gia xét hỏi để làm rõ nội dung liên quan đến vụ án, nội dung kháng cáo; nhận xét, đánh giá đầy đủ về quá trình thụ lý, giải quyết vụ án của cấp sơ thẩm, phúc thẩm; viện dẫn chứng cứ, lập luận để xác định việc cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Ngọc Đ về 2 tội,  bị cáo Vũ Văn H bị xét xử về tội Gây rối trật tự công cộng là đúng, không oan; đề xuất Hội đồng xét xử phúc thẩm bác đơn kháng cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

Kết quả, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuyên: Y án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, xử phạt bị cáo 2 tội là 40 tháng tù, bị cáo T giảm 6 tháng tù về tội Trốn thuế, còn các bị cáo khác giữ nguyên mức án của bản án sơ thẩm. Sau khi kết thúc phiên tòa, Phòng 7 đã tổ chức cuộc họp rút kinh nghiệm trong đơn vị. Các ý kiến nhận xét xác định: Quá trình chuẩn bị xét xử đảm bảo đúng quy định, khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã chủ động xét hỏi bị cáo, thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, bảo vệ được quan điểm của VKSND tỉnh Hải Dương.

Qua việc tổ chức phiên tòa tự rút kinh nghiệm, tiếp tục giúp các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong đơn vị nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, tự học tập để nâng cao kỹ năng đối đáp, tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.

Đỗ Văn Đại - Trần Thu Hiền