Để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND tối cao đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp mang tính đột phá và thiết thực cao, đáp ứng yêu cầu đặt ra ngày càng cao của công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới của đất nước và xu thế hội nhập của thế giới. 

Tại Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 28/12/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao và Chương trình số 01/CTr-VKS ngày 4/1/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương có nội dung: “Triển khai thực hiện việc “số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa để bảo đảm sự thuyết phục trong quá trình xét hỏi và tranh tụng”.

Tuy nhiên, nhiệm vụ này còn mới so với nhiều đơn vị, chưa được thực hiện đồng bộ và chất lượng, hiệu quả đạt được ở nhiều mức độ khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện cơ sở vật chất, kiến thức về tin học, khả năng sử dụng và vận hành các thiết bị liên quan, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm thực hiện … 

leftcenterrightdel
Toàn cảnh phiên tòa sử dụng số hóa hồ sơ vụ án

Qua kết quả thực hiện nhiệm vụ “số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đối với vụ án Trần Đình Hà cùng 17 bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” của đơn vị, chúng tôi nhận thấy phương pháp này mang lại hiệu quả rất cao, góp phần không nhỏ vào nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, chủ yếu nhất là trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử, cụ thể:

Thứ nhất, việc “số hóa hồ sơ vụ án” làm tinh gọn hồ sơ vụ án, thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, khai thác hồ sơ của Kiểm sát viên. Khi cần nghiên cứu tài liệu, chứng cứ, Kiểm sát viên không bị phụ thuộc quá nhiều vào hồ sơ vụ án (hồ sơ giấy), nếu được sắp xếp khoa học thì việc tìm kiếm tài liệu có trong hồ sơ rất dễ dàng và nhanh chóng, qua đó rút ngắn thời gian nghiên cứu và trích cứu tài liệu của Kiểm sát viên.

Thứ hai, việc “số hóa hồ sơ vụ án” góp phần bảo đảm bí mật hồ sơ do không phải di chuyển, sử dụng nhiều đến hồ sơ vụ án và hồ sơ kiểm sát, trừ khi cần thiết phải sử dụng để đối chiếu với tài liệu số hóa hoặc theo quy định của pháp luật phải sử dụng hồ sơ chính.

Thứ ba, việc “số hóa hồ sơ vụ án” góp phần làm giảm chi phí để sao lưu tài liệu phục vụ lưu trữ hồ sơ kiểm sát theo quy định của ngành và phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác nhau. Đặc biệt là đối với những vụ án có nhiều tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, việc phô tô toàn bộ tài liệu sẽ tốn nhiều chi phí và thời gian hơn so với việc phô tô các tài liệu quan trọng kết hợp với việc số hóa hồ sơ.

Thứ tư, việc “số hóa hồ sơ vụ án” giúp Kiểm sát viên chủ động và linh hoạt hơn trong quá trình tham gia thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Tại phiên tòa, có nhiều tình huống phức tạp có thể diễn ra, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nhanh chóng, linh hoạt giải quyết, việc sử dụng hồ sơ giấy hoặc tài liệu trích cứu có thể không bảo đảm kịp thời, khi đó việc sử dụng hồ sơ, tài liệu số hóa lại mang lại hiệu quả rất cao, chỉ bằng những thao tác đơn giản cũng có thể nhanh chóng tìm được tài liệu cần thiết.

Cuối cùng, mục đích quan trọng nhất của việc “số hóa hồ sơ vụ án” là để nhằm phục vụ cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Việc công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa góp phần bảo đảm tính khách quan khi kiểm chứng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bảo đảm tính thuyết phục trong quá trình tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên, đấu tranh có hiệu quả đối với các trường hợp bị cáo có biểu hiện quanh co, chối tội hoặc từ chối khai báo cũng như các quan điểm trái chiều do những người tham gia tố tụng khác đưa ra.

leftcenterrightdel
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có hồ sơ được số hóa. 

Trên cơ sở những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chúng tôi rút ra được một số kinh nghiệm để thực hiện có hiệu quả việc “số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa như sau:

Một là: Phải trang bị cơ sở vật chất bảo đảm đầy đủ cho quá trình xây dựng hồ sơ số hóa và quá trình công bố chứng cứ, tài liệu bằng hình ảnh tại phiên tòa. Đây là điều kiện tiên quyết, không thể thiếu để thực hiện được công tác này. Các trang thiết bị phải bảo đảm về tính năng, tính ổn định và không kết nối Internet để bảo đảm không bị gián đoạn trong quá trình thực hiện và không bị lộ, lọt thông tin.

Hai là: Phải xây dựng được kế hoạch cụ thể, chi tiết trong quá trình tổ chức thực hiện, trong đó cần xác định ưu tiên thực hiện đối với những vụ án phức tạp, có thể có nhiều tình huống phát sinh trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa nhất là các vụ án như “Cố ý gây thương tích”, “Đánh bạc”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế… có nhiều người tham gia tố tụng. Khi đã xác định được vụ án cần tiến hành “số hóa hồ sơ” và công bố chứng cứ, tài liệu bằng hình ảnh tại phiên tòa thì ngay từ trong giai đoạn điều tra, phải phối hợp tốt với Cơ quan điều tra trong việc nghiên cứu phương pháp sắp xếp, đánh số bút lục hồ sơ theo quy định, việc “số hóa hồ sơ” cần được tiến hành ngay sau khi hồ sơ vụ án được hoàn chỉnh việc đóng dấu và đánh số bút lục.

Ba là: Việc sắp xếp hồ sơ số hóa cần phải thực sự khoa học, vừa bảo đảm theo trình tự của hồ sơ vụ án (hồ sơ chính) vừa phải lập thành các danh mục tài liệu trên hồ sơ số hóa để dễ nhớ, dễ tra cứu. Đối với các hồ sơ vụ án có nhiều bút lục thì cần phải lập Bookmark (đánh dấu tài liệu để tra cứu) cho từng tập hồ sơ để gọn gàng và dễ tra cứu.

Bốn là: Phải phối hợp tốt với Tòa án để thực hiện các nội dung công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa được thống nhất, tránh chồng chéo và thực hiện không đúng quy định của pháp luật.

Năm là: Phải thành lập bộ phận kỹ thuật để phục vụ trong quá trình công bố hồ sơ số hóa tại phiên tòa, bộ phận này phải đang công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng (để bảo đảm yếu tố bí mật), được đào tạo thành thạo về sử dụng các thiết bị cũng như kỹ năng công bố hồ sơ số hóa theo yêu cầu của Hội đồng xét xử.

Sáu là: Phải chuẩn bị tốt các tài liệu chuẩn bị xét xử kết hợp với kế hoạch sử dụng chứng cứ, tài liệu được số hóa. Đây là nội dung then chốt, quyết định đến chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, công tác chuẩn bị càng cụ thể, dự kiến được tình huống sát với nội dung vụ án bao nhiêu thì chất lượng tranh tụng và tính thuyết phục, khách quan khi đưa ra quan điểm của Viện kiểm sát càng cao.

Bảy là: Kiểm sát viên phải nắm chắc hồ sơ vụ án và hồ sơ được số hóa, đánh dấu những nội dung cần lưu ý để tiện cho người xem trong quá trình công bố; tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong các tình huống công bố chứng cứ, tài liệu, số hóa, nắm chắc trường hợp nào được phép công bố, trường hợp nào không được công bố; vận dụng linh hoạt trong quá trình công bố tài liệu được số hóa tại phiên tòa theo các nội dung đã chuẩn bị và các nội dung phát sinh.

Tám là: Bảo đảm tuyệt đối về bí mật hồ sơ, trong quá trình thực hiện việc số hóa hồ sơ cũng như công bố tài liệu chứng cứ tại phiên tòa, lưu ý máy tính không kết nối Internet; việc việc lưu trữ hồ sơ phải chấp hành nghiêm quy định của nhà nước, quy chế của ngành, sau khi sử dụng xong phải bảo quản đúng nơi quy định, không sao chép, phổ biến rộng rãi.

Trên đây là những chia sẻ về kinh nghiệm “số hóa hồ sơ vụ án” và thực hiện công bố chứng cứ, tài liệu bằng hình ảnh tại phiên tòa trên cơ sở kết quả thực hiện thực tế tại đơn vị. Dự báo trong những năm tiếp theo, nội dung nhiệm vụ này sẽ tiếp tục được triển khai đồng bộ và có nhiều giải pháp thực hiện hiệu quả hơn.

Để làm được điều đó, trước hết mỗi đơn vị phải chấp hành nghiêm các chủ trương, biện pháp và nhiệm vụ được nêu trong các chỉ thị, chương trình, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát cấp trên, đề cao vai trò của phương pháp này để thực sự mang lại hiệu quả, nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà trọng tâm là “nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa”. Từ đó thường xuyên nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm và tổ chức thực hiện có hiệu quả phương pháp này. 

Nguyễn Trọng Việt - VKSQS Khu vực 23