Đại diện Viện kiểm sát: Hợp đồng "đội giá" thiếu căn cứ

Sáng 12/4, TAND TP Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm Vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên (viết tắt là TISCO).

Tại phiên xét xử, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố công bố bản cáo trạng. Theo cáo trạng của VKSND tối cao, Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Công ty Gang thép Thái Nguyên do TISCO làm chủ đầu tư, cấp quyết định đầu tư là Hội đồng quản trị Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNS).

Dự án ban đầu có tổng mức đầu tư hơn 3.800 tỉ đồng. Năm 2007, đơn vị trúng thầu xây dựng là Tập đoàn Khoa học Công nghệ và Thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC).

Căn cứ kết quả đấu thầu, ngày 12/7/2007, Trần Trọng Mừng, Tổng Giám đốc TISCO cùng ông Shen He Ting (Thẩm Hạc Đình), Tổng Giám đốc MCC ký Hợp đồng số 01#EPC/TISCO-MCC (viết tắt là Hợp đồng EPC số 01#). 

Giá trị hợp đồng EPC số 01# là hơn 160 triệu USD (tương đương hơn 3.500 tỉ đồng), là giá trọn gói không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng và đã bao gồm các loại thuế được xác định trong hợp đồng, các chi phí cần thiết để thực hiện hợp đồng theo phương thức Tổng thầu EPC.

leftcenterrightdel
 Đại diện Viện kiểm sát đọc cáo trạng tại phiên tòa.

Sau khi ký Hợp đồng EPC số 01#, ngày 29/9/2007, TISCO cùng MCC đã khởi công thực hiện Hợp đồng. Tuy nhiên, sau hơn 11 tháng kể từ khi Hợp đồng EPC số 01# có hiệu lực thực hiện, MCC chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ; chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, không đặt hàng chế tạo máy móc thiết bị, không triển khai thi công các hạng mục của gói thầu, mà rút hết người về nước và nhiều lần có văn bản đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng, tăng giá hợp đồng thêm hơn 138 triệu USD (tương đương hơn 3.000 tỉ đồng), bao gồm chi phí xây lắp, thiết bị, thiết kế, dịch vụ kỹ thuật và biến động tỷ giá.

Việc MCC đưa ra đề nghị điều chỉnh giá hợp đồng EPC như trên với lý do giá cả thị trường thế giới biến động tăng giá bất thường bị Viện Kiểm sát xác định là không có căn cứ, không đúng nguyên tắc hợp đồng theo hình thức trọn gói đã ký (Hợp đồng EPC).

Viện Kiểm sát xác định hành vi trên của các bị cáo là không có căn cứ, đã làm phá vỡ nguyên tắc thực hiện hợp đồng theo hình thức trọn gói của Hợp đồng EPC số 01#, gây bất lợi cho TISCO khi nhà thầu phụ không hoàn thành phần C thì không ràng buộc được trách nhiệm của MCC, tạo điều kiện để MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện Hợp đồng EPC số 01#.

Theo nội dung cáo trạng, Trần Trọng Mừng, Tổng Giám đốc và các cá nhân có liên quan thuộc TISCO, VNS  biết rõ và xác định không có căn cứ để điều chỉnh hợp đồng, điều chỉnh chi phí tăng thêm của phần C, các bên đều phải có nghĩa vụ tuân thủ nghiêm túc, tôn trọng các điều khoản đã ký trong Hợp đồng EPC số 01#.

Chọn nhà thầu phụ chỉ dựa vào giới thiệu của … Bộ Công thương

Đại diện Viện kiểm sát nhận định, TISCO chỉ dựa trên sự giới thiệu của Bộ Công thương tại Văn bản số 4320/BCT-CNNg ngày 14/5/2009 mà không tiến hành thẩm định và cũng không có căn cứ pháp lý nào để xác định VINAINCON có đủ năng lực làm nhà thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01#.

Trần Trọng Mừng chỉ đạo Đặng Văn Tập, Đồng Quang Dương tham mưu, ký kiểm soát để trình Mừng ký Văn bản số 475/GTTN-QLDA, có nội dung báo cáo Bộ Công thương và VNS, đề nghị báo cáo Chính phủ phê duyệt chủ trương: Chọn VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện phần C và được phép điều chỉnh chi phí thực hiện phần C cho nhà thầu phụ Việt Nam; Chủ đầu tư sẽ trực tiếp quản lý chi phí phần C đồng thời đứng ra làm trung gian giám sát việc ký, thực hiện hợp đồng thầu phụ thực hiện phần C ký giữa MCC và thầu phụ VINAINCON là không có cơ sở pháp lý, không đúng quy định của Hợp đồng EPC số 01#.

leftcenterrightdel
 Hội đồng xét xử vụ án.

Trên cơ sở đề nghị nêu trên của TISCO, Trịnh Khôi Nguyên, Trưởng Phòng Đầu tư phát triển VNS đã chỉ đạo Lê Thu Hiền, Chuyên viên Phòng Đầu tư phát triển VNS xây dựng dự thảo văn bản và Nguyên ký kiểm soát để Đậu Văn Hùng, Tổng Giám đốc VNS ký Tờ trình đề nghị HĐQT báo cáo Chính phủ chấp thuận chủ trương: Chọn VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01#; cho phép Chủ đầu tư được điều chỉnh chi phí thực hiện phần C theo các quy định về điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng; nhà thầu phụ Việt Nam (VINAINCON) được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá...

Sau đó, Đặng Thúc Kháng, Ủy viên HĐQT kiêm Trưởng Ban kiểm soát VNS đã có bút phê chỉ đạo Nguyễn Văn Tráng, thành viên Ban kiểm soát VNS, xem và có ý kiến.

Đến ngày 25/6/2009, Nguyễn Văn Tráng có văn bản thẩm định gửi Đặng Thúc Kháng, có nội dung: Nhất trí với phương án giải quyết khó khăn của Hợp đồng EPC số 01#; thống nhất báo cáo Bộ, Chính phủ chấp thuận chủ trương: Chọn VINAINCON là nhà thầu phụ; cho phép chủ đầu tư được điều chỉnh chi phí thực hiện phần C theo các quy định về điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng và VINAINCON được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá...

Cùng ngày 25/6/2009, Đặng Thúc Kháng có ý kiến chỉ đạo trên văn bản của Nguyễn Văn Tráng, có nội dung: Ban kiểm soát đã thẩm định và nhất trí, anh cho lấy ý kiến các Ủy viên HĐQT và dự thảo văn bản trình để anh Tinh (Mai Văn Tinh-PV) ký.

Trong ngày 25/6/2009, Hoàng Ngọc Chiến, Phó Văn phòng VNS gửi email kèm theo Tờ trình số 835/TTr-VNS ngày 23/6/2009 và văn bản thẩm định ngày 25/6/2009 của Ban kiểm soát VNS đến tất cả các Ủy viên HĐQT VNS, gồm: Đặng Thúc Kháng, Lê Phú Hưng, Nguyễn Minh Xuân, Mai Văn Tinh, Đậu Văn Hùng.

leftcenterrightdel
 Các bị cáo nghe công bố cáo trạng.

Tờ trình có nội dung: Tổng Giám đốc trình HĐQT VNS xem xét: “Thống nhất phương án giải quyết khó khăn của Hợp đồng EPC số 01# thuộc dự án giai đoạn 2; Thống nhất báo cáo Chính phủ và Bộ ngành liên quan chấp thuận chủ trương chọn VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện Phần C của Hợp đồng EPC số 01#; Cho phép Chủ đầu tư được điều chỉnh chi phí thực hiện phần C theo các quy định về điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng. VINAINCON được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá”.

Cùng ngày 25/6/2009, Đặng Thúc Kháng gửi email trả lời cho các thành viên HĐQT và ông Hoàng Ngọc Chiến, có nội dung: Tôi nhất trí.

Gây thiệt hại hơn 830 tỉ đồng

Tại phiên xét xử, đại diện Viện kiểm sát nhấn mạnh: Quá trình thực hiện Hợp đồng EPC số 01#, MCC có nhiều vi phạm. Trong đó, sau hơn 11 tháng kể từ khi hợp đồng có hiệu lực thực hiện, MCC chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ; chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, không đặt hàng chế tạo máy móc thiết bị, không triển khai thi công các hạng mục của gói thầu, mà rút hết người về nước và nhiều lần đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng và tăng giá hợp đồng không có căn cứ, không phù hợp quy định của pháp luật, không đúng với nội dung các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.

Với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, bị can Trần Trọng Mừng, bị can Mai Văn Tinh đã không xem xét, chỉ đạo dừng, chấm dứt hợp đồng, thu hồi tiền tạm ứng, áp dụng điều khoản phạt hợp đồng, báo cáo người có thẩm quyền xem xét để hủy đấu thầu và tổ chức đấu thầu lại theo quy định để đảm bảo hiệu quả và tiến độ của Dự án, mà lại chỉ đạo thực hiện các hành vi phạm pháp luật về đầu tư, vi phạm Hợp đồng EPC số 01# để tiếp tục thực hiện Hợp đồng, cùng với các bị can Trần Văn Khâm, Đậu Văn Hùng chỉ đạo các cá nhân có liên quan thuộc TISCO và VNS, tổ chức, thực hiện việc điều chỉnh dự toán chi phí phần C;

Tham gia ký hợp đồng thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01# theo hình thức hợp đồng theo đơn giá, TISCO trực tiếp nghiệm thu, thanh toán cho nhà thầu phụ thực hiện phần C, tự chịu mọi rủi ro, đã làm phá vỡ nguyên tắc thực hiện hợp đồng theo hình thức trọn gói của Hợp đồng EPC số 01#, khi nhà thầu phụ không hoàn thành phần C thì không ràng buộc được trách nhiệm của MCC, tạo điều kiện để MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện Hợp đồng EPC số 01#; chấp thuận không có căn cứ VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01# trong khi VINAINCON không đủ năng lực để thực hiện, là vi phạm khoản 17, 31 Điều 4, Điều 49 Luật Đấu thầu năm 2005; khoản 1 Điều 7; Điều 11; khoản 1 Điều 21 Nghị định số 99/2007/NĐ-CP; điểm 7.6.1, điểm 7.9.1. Thông tư số 06/2007/TT- BXD của Bộ Xây dựng, vi phạm quy định của Hợp đồng EPC số 01#.

Các vi phạm này chính là nguyên nhân dẫn đến dự án chậm tiến độ, làm phát sinh tăng lãi vay, tăng chi phí đầu tư, gây thất thoát, lãng phí đặc biệt nghiêm trọng tài sản Nhà nước.

Các bị can Đặng Thúc Kháng, Nguyễn Trọng Khôi, Ngô Sỹ Hán, Đặng Văn Tập, Đồng Quang Dương, Trịnh Khôi Nguyên, Nguyễn Văn Tráng, Đỗ Xuân Hòa, Uông Sỹ Bính và Lê Thị Tuyết Lan đã có hành vi đồng phạm các vi phạm nêu trên.

Các bị can Lê Phú Hưng, Nguyễn Minh Xuân đã không thực hiện hết trách nhiệm của thành viên HĐQT VNS khi cho ý kiến nhất trí với Tờ trình số 835/TTr-VNS ngày 23/6/2009 của Tổng Giám đốc đề nghị HĐQT VNS báo cáo Bộ Công thương và Chính phủ chấp thuận cho điều chỉnh chi phí thực hiện phần C, nhà thầu phụ VINAINCON được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá không có căn cứ; các bị can Nguyễn Chí Dũng, Hoàng Ngọc Diệp, Đoàn Thu Trang đã không thực hiện hết trách nhiệm của thành viên HĐQT TISCO khi cho ý kiến nhất trí với Tờ trình số 405/TTr-GTTN ngày 4/11/2009 của Tổng Giám đốc đề nghị HĐQT TISCO phê duyệt điều chỉnh cơ cấu tổng mức đầu tư dự án, trong đó có dự phòng cho phần C là 15,57 triệu USD không có căn cứ.

VKSND tối cao kết luận, từ những hành vi vi phạm pháp luật về quản lý tài sản Nhà nước và hành vi thiếu trách nhiệm của các cá nhân thuộc TISCO và VNS đã dẫn đến hậu quả làm thất thoát, lãng phí, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản Nhà nước với tổng số tiền lên tới hơn 830 tỉ đồng.

Đây là số tiền lãi suất thực tế mà TISCO đã phải trả cho các ngân hàng, kể từ khi dự án chậm tiến độ (từ ngày 31/5/2011) đến thời điểm khởi tố vụ án (ngày 18/4/2019).

 

Hà Nhân