Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 về Tội cho vay lãi nặng quy định:
“''1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”.
Yếu tố cấu thành Tội cho vay lãi nặng
Khách thể
Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Mặt khách quan
Hành vi khách quan: Hành vi của người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi cho người khác vay tiền với lãi suất cao gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự.
Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”.
Theo đó, lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự là 20%/năm. Như vậy, lãi suất gấp 05 lần trở lên lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự là 100%/năm trở lên.
Thủ đoạn mà người phạm tội cho vay lãi nặng thường là lợi dụng những người gặp hoàn cảnh khó khăn đột xuất như bị thiên tai, bệnh tật hoặc những khó khăn khác cần gấp một số tiền lớn mà không có khả năng vay được chỗ nào khác để “ép” người vay phải chịu lãi suất cao.
Hậu quả: Hậu quả là điều kiện bắt buộc của tội phạm này. Hậu quả của tội cho vay nặng lãi là gây thiệt hại về tài sản cho người vay. Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người cho vay phải thu lợi bất chính từ việc cho vay nặng lãi từ 30.000.000 đồng trở lên mới phạm tội. Số tiền từ 300.000.000 đồng trở lên không bắt buộc là từ một người vay hay nhiều người vay, chỉ cần người cho vay thu lợi bất chính từ việc cho vay lãi nặng 300.000.000 đồng là đã thỏa mãn dấu hiệu về tội này.
Ngoài ra, trong trường hợp người có hành vi cho vay lãi nặng thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng nhưng người đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về tội cho vay lãi nặng hoặc đã bị kết án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
Mối quan hệ nhân quả: Mối quan hệ nhân quả là điều kiện bắt buộc của mọi tội phạm, nguyên nhân dẫn đến hậu quả phải là hành vi khách quan của tội phạm. Thiệt hại về tài sản của người vay phải từ hành vi cho vay nặng lãi gây ra chứ không phải từ nguyên nhân nào khác.
Chủ thể
Chủ thể của tội cho vay lãi nặng là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai nếu thoả mãn các điều kiện quy định của pháp luật dều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, tội phạm này là tội phạm ít nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này
Mặt chủ quan
Phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Mục đích của người phạm tội là thu lợi bất chính từ việc cho vay nặng lãi, mục đích này luôn được đặt ra từ trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, tội phạm luôn nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là sai trái và mong muốn hậu quả xảy ra để đạt được mục đích của mình.
Về hình phạt
Mức hình phạt của tội này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
+ Khung một (khoản 1).
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.
+ Khung hai (khoản 2).
Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
+ Hình phạt bổ sung (khoản 3).
Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, thì tùv từng trường hợp cụ thể. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.