Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi của một người đã thành niên giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không trái với ý muốn của nạn nhân.
Cần phân biệt với tội “Cưỡng dâm trẻ em” là hành vi của một người dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu với mình (Điều 144 Bộ luật hình sự).
Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 Bộ Luật Hình sự như sau:
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
|
|
'Sốc’ với tâm thư ‘tự nguyện trao thân’ của nữ sinh lớp 10 viết cho thầy giáo 55 tuổi. |
Yếu tố cấu thành tội "Giao cấu với người từ 13 đến dưới 16 tuổi":
Chủ thể
Người phạm tội phải là người đã thành niên, tức là người đã đủ 18 tuổi trở lên. Chủ thể của tội phạm này có thể là nữ giới, nhưng đa số là nam giới.
Việc giao cấu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hoàn toàn có sự đồng tình của hai người không bên nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối tình yêu đương giữa hai người, nhất là ở những vùng có trình độ dân trí thấp và vẫn còn duy trì tục lệ tảo hôn.
Người bị hại trong vụ án giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, có thể là nam giới nhưng chủ yếu là nữ giới.
Việc để người phạm tội giao cấu là hoàn toàn có sự tự nguyên, không hề có sự cưỡng bức hay ép buộc nào. Mặc dù họ tự nguyện và có nhiều trường hợp họ yêu cầu không xử lý đối với người phạm tội, nhưng yêu cầu này của họ không được chấp nhận vì họ là đối tượng mà Nhà nước buộc phải bảo vệ.
Chỉ coi là tội giao cấu với trẻ em khi người phạm tội và người bị hại đã thực hiện việc giao cấu, nếu chỉ có những hành vi có tính chất dâm ô mà chưa thực hiện việc giao cấu thì không cấu thành tội giao cấu với trẻ em mà tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dâm ô trẻ em .
Khách thể
Là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Mặt khách quan
Đây là hành vi giao cấu có sự đồng ý, chấp nhận của nạn nhân mặc dù người phạm tội không có bất kỳ thủ đoạn nào để ép buộc, khống chế nạn nhân. Để thực hiện được mục đích giao cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác trong tội này, người thực hiện tội phạm có thể đạt được mục đích thông qua nhiều trường hợp, nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng chung nhất là không có việc sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, lợi dụng tình trạng không chống cự được của nạn nhân, các thủ đoạn khác hoặc lợi dụng sự lệ thuộc của nạn nhân như ở các tội hiếp dâm, cưỡng dâm.
Hành vi của tội này phải được thực hiện một cách đồng thuận, mà nhiều trường hợp chính người thực hiện hành vi còn không ý thức được mình đang thực hiện một hành vi phạm tội. Trường hợp chủ thể dùng tiền hoặc tài sản trao đổi lấy việc giao cấu thuận tình với nạn nhân thì không cấu thành tội này. Việc trừng trị hành vi giao cấu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bằng luật hình sự của Nhà nước ta cũng chủ yếu nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về mặt tình dục đối với người chưa đủ 16 tuổi.
Hành vi phạm tội trên về nguyên tắc đã xâm phạm tình dục cũng như sự phát triển của người từ 13 đến dưới 16 tuổi. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là tội cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với nạn nhân là người từ 13 đến dưới 16 tuổi thì đã cấu thành tội phạm này. Mục đích cuối cùng là thỏa mãn nhu cầu tình dục dù có thuận theo ý muốn đối với nạn nhân nhưng không phù hợp với lứa tuổi và sự non nớt về nhận thức của nạn nhân nên cần phải bị xử lý hình sự.
Mặt chủ quan
Người thực hiện phải có lỗi cố ý.
Chỉ coi là phạm tội khi một bên là người đã thành niên và một bên là người bị hại là trẻ em cùng thống nhất thực hiện việc giao cấu với nhau. Nếu việc giao cấu chưa được thực hiện, thì không cấu thành tội này mà tuỳ thuộc vào thực tiễn hành vi khách quan của người thành niên đối với trẻ em mà có thể định tội dâm ô với người dưới 16 tuổi tại Điều 146 Bộ luật hình sự.
Hình phạt
Khoản 1 của điều 145 BLHS 2015 quy định về cấu thành cơ bản của tội này như sau: Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Trường hợp tại điều 142 là hiếp dâm với người từ 13 đến dưới 16 tuổi còn trường hợp tại điều 144 là cưỡng dâm với người từ 13 đến dưới 16 tuổi. Như vậy cấu thành của tội này dùng hành vi để xác định một người có phạm tội hay không chứ không xem xét về các yêu tố khác như hậu quả hay mục đích.
Khoản 2 điều 145 quy định về cấu thành tăng nặng với các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự cụ thể, mà nếu rơi vào các trường hợp này người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
Khoản 3 điều 145 quy định về khoản tăng nặng hơn với 2 trường hợp được liệt kê, khung hình phạt cho người thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội là tù từ 07 năm đến 15 năm.