Chia sẻ về vụ việc gây chấn động trong những ngày qua này, Luật sư Đặng Văn Cường - Trưởng văn phòng Luật sư Chính Pháp (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho rằng, đây là một hành vi bất chấp, coi thường pháp luật, xâm hại nhiều quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Bởi vậy, các đối tượng này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội danh, trong đó có tội hiếp dâm, cướp tài sản... hình phạt cao nhất có thể lên đến tù chung thân.
Với hành vi trộm cắp tài sản, hiếp dâm và cướp tài sản thì các đối tượng này đã để lại trên hiện trường, trên cơ thể cơ thể nạn nhân nhiều dấu vết, ngoài ra còn có thể trích xuất camera để lấy thêm thông tin, hình ảnh; có lời khai của người bị hại, những người làm chứng... bởi vậy việc truy xét để bắt giữ các đối tượng này có lẽ sẽ không gặp nhiều khó khăn.
Cơ quan điều tra sẽ tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập các dấu vết, chứng cứ và cho nạn nhân đi giám định pháp y tỉnh dụng để xác định dấu vết, chứng cứ để lại và hậu quả của hành vi xâm hại tình dục đối với nạn nhân. Đồng thời, cần đưa nạn nhân đi khám chữa, điều trị và kiểm tra tâm lý, sức khỏe để trấn an tâm lý tinh thần cho nạn nhân.
|
|
Luật sư Đặng Văn Cường chia sẻ về vụ ni cô bị hiếp dâm trong tịnh thất. |
Theo Luật sư Đặng Văn Cường, cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án hiếp dâm, khởi tố vụ án cướp tài sản và có thể thêm vụ án trộm cấp tài sản để tiến hành hoạt động điều tra theo quy định pháp luật. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ làm rõ hành vi lén lút để lấy tài sản của nạn nhân là những tài sản trị giá bao nhiêu tiền?
Nếu có căn cứ cho thấy trước thời điểm bị nạn nhân phát hiện, các đối tượng đã lén lút lấy được tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên, thì hành vi này cấu thành Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điều 173 Bộ luật Hình sự, cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:
a) Có tổ chức.
b) Có tính chất chuyên nghiệp.
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm.
đ) Hành hung để tẩu thoát.
e) Tài sản là bảo vật quốc gia.
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Ngoài số tài sản đã lén lút lấy cắp, sau khi tấn công nạn nhân bằng vũ lực thì các đối tượng tiếp tục lấy thêm tài sản của nạn nhân, hành vi này sẽ cấu thành Tội cướp tài sản theo quy định tại điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Nếu thông tin ban đầu là chính xác, sau khi hiếp dâm nạn nhân đối tượng đã lấy đi 1,5 triệu đồng thì đây là hành vi cướp tài sản. Các đối tượng dùng vũ lực để lấy tài sản của nạn nhân sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cướp tài sản theo quy định tại điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:
Điều 168. Tội cướp tài sản
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức.
b) Có tính chất chuyên nghiệp.
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%.
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác.
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ.
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 1 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 2 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên.
c) Làm chết người.
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Riêng đối với hành vi cướp tài sản, các đối tượng này có thể bị áp dụng tình tiết là phạm tội có tổ chức hoặc hành vi được xác định là đã ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, nên các đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này thì sẽ phải đối mặt với mức hình phạt từ 7 năm tù đến 15 năm năm tù. Ngoài ra, nếu còn phạm tội khác thì sẽ bị tổng hợp hình phạt đối với các tội danh khác.
Trong trường hợp, trước khi bị phát hiện các đối tượng này chưa lấy được tài sản nào, sau khi dùng vũ lực tấn công nạn nhân thì mới lấy tài sản mang đi thì các đối tượng này chỉ bị áp dụng một tội danh là tội cướp tài sản đối với hành vi xâm hại tài sản của nạn nhân.
Còn đối với hành vi dùng vũ lực để cưỡng hiếp nạn nhân thì hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Hiếp dâm theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015, mức hình phạt có thể lên đến 15 năm tù.
Điều 141. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức.
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
c) Nhiều người hiếp một người.
d) Phạm tội 2 lần trở lên.
đ) Đối với 2 người trở lên.
e) Có tính chất loạn luân.
g) Làm nạn nhân có thai.
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên.
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 5 năm.
Như vậy, với hành vi nhiều người hiếp một người thì các đối tượng này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2, điều 141 Bộ luật Hình sự nêu trên và hình phạt phải đối mặt là từ 7 năm đến 15 năm tù.
Với đối tượng chủ mưu, cầm đầu, thực hành tích cực, ngoan cố chống đối, có tiền án tiền sự, nhân thân xấu thì có thể sẽ bị tổng hợp hình phạt đến 30 năm tù của nhiều tội danh.
“Hành vi của các đối tượng là rất manh động, côn đồ, bất chấp pháp luật, coi thường sức khỏe, danh dự nhân phẩm và tài sản của người khác, gây bức xúc trong tự luận, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bởi vậy cơ quan điều tra sẽ sớm truy bắt để xử lý các đối tượng này theo quy định pháp luật” - Trưởng văn phòng Luật sư Chính Pháp nhận định.
Chiều 18/7, Văn phòng Chính phủ ra thông báo truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Trưởng Ban Phòng chống tội phạm của Chính phủ yêu cầu điều tra, làm rõ vụ án ni cô bị cướp của, hiếp dâm xảy ra ở Quảng Nam.
Văn bản nêu rõ: “Ngày 17/7, tại xã Tam Nghĩa, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam đã xảy ra vụ việc nhóm 3 đối tượng sau khi đột nhập tịnh thất Từ Long để trộm cắp tài sản, đã khống chế thực hiện hành vi hiếp dâm, cướp tài sản đối với ni cô đang tu hành tại tịnh thất.
Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc xã hội. Vì vậy, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hoà Bình yêu cầu Bộ Công an, UBND tỉnh Quảng Nam chỉ đạo các lực lượng chức năng áp dụng các biện pháp khẩn trương truy bắt, điều tra làm rõ, sớm đưa các đối tượng ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật, bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân”.
|