Đồng thời kiểm sát việc thực hiện quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện; kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị xét, ra quyết định rút ngắn thời gian thử thách cho người được tha tù trước thời hạn có điều kiện và việc thi hành quyết định này.

Nhằm thực hiện chính sách nhân đạo trong việc xử lý người phạm tội, Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS) có chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Đây là một chính sách hình sự mới hết sức nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, để thực hiện một cách thống nhất chế định này, cần có văn bản hướng dẫn áp dụng của liên ngành tố tụng Trung ương.

leftcenterrightdel
 Tha tù trước thời hạn là một chính sách nhân đạo của Nhà nước

Theo quy định tại Điều 66 và Điều 106 BLHS, thì người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hoặc người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:

Phạm tội lần đầu; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; có nơi cư trú rõ ràng; đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí; đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.

Trường hợp người phạm tội là người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn; không thuộc một trong các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều này.

Đối với người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện: phạm tội lần đầu; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù; có nơi cư trú rõ ràng.

Không áp dụng quy định của Điều này đối với người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII - các tội Xâm phạm an ninh quốc gia, Chương XXVI – các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, Điều 299 tội khủng bố; người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV – các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các tội: cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội sản xuất trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy, tội chiếm đoạt chất ma túy.

Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này.

Theo đề nghị của Cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.

Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.

Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

Tuy nhiên, để thực hiện một cách thống nhất chế định này, liên ngành tố tụng Trung ương cần sớm ban hành thông tư liên tịch để hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Nguyễn Hữu Sơn