Việc cung cấp thông tin phải được sự cho phép của người đứng đầu VKSND các cấp

Quy chế này quy định nguyên tắc, quy trình, trách nhiệm trong việc công khai và cung cấp thông tin thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn cung cấp thông tin của VKSND theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin.

Thông tin thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn cung cấp của VKSND bao gồm thông tin do các đơn vị thuộc VKSND tối cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND khu vực (VKSND các cấp) chủ trì, phối hợp ban hành hoặc tạo ra, được cung cấp theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin và pháp luật có liên quan trong từng lĩnh vực.

Quy chế này áp dụng đối với VKSND các cấp; công chức, viên chức trong ngành Kiểm sát nhân dân; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Quy chế này không áp dụng đối với hệ thống Viện kiểm sát quân sự các cấp.

Về nguyên tắc thực hiện cung cấp thông tin, Quy chế nêu rõ, ngoài các nguyên tắc thực hiện cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin thì việc cung cấp thông tin của VKSND các cấp phải bảo đảm các nguyên tắc sau:

Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành, việc thực hiện cung cấp thông tin phải báo cáo và được sự cho phép của người đứng đầu VKSND các cấp.

Bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan, đơn vị trong ngành Kiểm sát nhân dân trong quá trình cung cấp thông tin.

Tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin.

Việc cung cấp thông tin cho công dân phải bảo đảm đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; khách quan, kịp thời, chính xác.

Về chủ thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin, theo Quy chế bao gồm: Công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin và Quy chế này; người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người giám hộ; người dưới 18 tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp luật về trẻ em và luật khác có quy định khác.

Bên cạnh đó, Quy chế cũng quy định các thông tin công dân không được tiếp cận gồm: Thông tin thuộc bí mật nhà nước; thông tin thuộc bí mật công tác do VKSND chủ trì, phối hợp ban hành hoặc tạo ra chưa được phép cung cấp; các thông tin khác công dân không được tiếp cận theo quy định của pháp luật.

Về các hành vi bị nghiêm cấm, Quy chế nêu: Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 11 Luật Tiếp cận thông tin; tự ý cung cấp thông tin do VKSND chủ trì, phối hợp ban hành hoặc tạo ra không thuộc trường hợp phải cung cấp; cung cấp thông tin không đúng trách nhiệm, quy trình, quy định.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh một buổi tiếp công dân tại VKSND cấp tỉnh. (Ảnh minh hoạ)

Về quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tiếp cận thông tin, theo Quy chế: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tiếp cận thông tin được thực hiện theo quy định tại Điều 8 Luật Tiếp cận thông tin.

Đồng thời, khiếu nại, khởi kiện, tố cáo trong việc cung cấp thông tin được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng hành chính.

Danh mục thông tin phải công khai

Quy chế nêu rõ các thông tin phải công khai, gồm: Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do VKSND tối cao chủ trì xây dựng; văn bản quy phạm pháp luật do Viện trưởng VKSND tối cao ban hành.

Điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là một bên có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND (do VKSND tối cao thực hiện thủ tục gia nhập, ký kết nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân hằng năm; thông tin về kế hoạch công tác hằng năm của VKSND các cấp.

Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của VKSND các cấp; nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết các công việc của công dân; nội quy, quy chế tổ chức và hoạt động do VKSND các cấp ban hành.

Thông tin về tuyển dụng, thi tuyển, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của VKSND các cấp; thông tin, chỉ tiêu về thi tuyển các chức danh tư pháp; thông tin về các khoá học, khoá đào tạo, bồi dưỡng; thông tin về danh mục và kết quả chương trình, đề tài khoa học, đề án của Ngành; thông tin về danh mục và kết quả sáng kiến cấp cơ sở, sáng kiến cấp Ngành; thông tin về danh sách tập thể, cá nhân được đề nghị khen thưởng, thông tin về danh sách tập thể, cá nhân được khen thưởng.

Thông tin về dự toán ngân sách nhà nước; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách đối với dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước; báo cáo tài chính năm; thông tin về danh mục dự án đầu tư công, mua sắm công và quản lý, sử dụng vốn đầu tư công; kết quả thực hiện dự án đầu tư công; thông tin về đấu thầu liên quan đến ngành Kiểm sát nhân dân.

Tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử của đơn vị đầu mối cung cấp thông tin cho công dân của VKSND các cấp.

Những thông tin khác phải công khai theo quy định của pháp luật.

Về xử lý thông tin trước khi công khai, theo Quy chế: Cơ quan, đơn vị chủ trì, phối hợp ban hành hoặc tạo ra thông tin quy định tại Điều 10 Quy chế này có trách nhiệm rà soát, kiểm tra tính bí mật của thông tin trước khi gửi cho Văn phòng VKSND cấp mình để công khai.

Ngoài ra, Quy chế nêu rõ: Văn phòng VKSND các cấp là đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin, gửi văn bản, thông báo và trả kết quả.

Cơ quan, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm chấp hành quy định của Quy chế này; nếu có vi phạm thì tuỳ theo tính chất, mức độ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật và của Ngành.

Quy chế này gồm 5 chương, 32 điều, có hiệu lực kể từ ngày ký Quyết định số 32/QĐ-VKSTC và thay thế Quyết định số 200/QĐ-VKSTC ngày 3/7/2024 của Viện trưởng VKSND tối cao.

P.V