Theo nội dung vụ án, ngày 21/3/2022, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam ký Hợp đồng cho vay số 3016403307/2021-HĐCV/NHCT490 với ông Huỳnh Văn Đ. Tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của ông Đ. là toàn bộ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với thửa đất số 224, tờ bản đồ số 12 (địa chỉ thôn C.N, xã C.T, TP H.A, tỉnh Quảng Nam) đứng tên ông Huỳnh Văn Đ. theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 00387, quyển số 01/2022/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 21/3/2022.
|
|
Phiên tòa xét xử vụ án dân sự trên địa bàn quận Hải Châu. (Ảnh minh họa) |
Đến ngày 23/3/2022, hai bên tiếp tục ký giấy đề nghị phát hành kiêm thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số 3016403307. Quá trình thực hiện các hợp đồng ông Đ. đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam khởi kiện, yêu cầu ông Huỳnh Văn Đ. phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi vay tạm tính đến ngày xét xử và đề nghị được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm nêu trên để thu hồi nợ trong trường hợp sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mà ông Huỳnh Văn Đ. không trả được nợ cho ngân hàng.
Đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D.T về việc sử dụng tài sản của ông Đ. thanh toán nợ của ông Đ đối với bà D.T thì ngân hàng không đồng ý, vì các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp được ký kết đúng theo trình tự, tài sản thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, nên thứ tự ưu tiên thanh toán thuộc về ngân hàng để thu hồi toàn bộ khoản nợ, phần còn lại sẽ tiếp tục thứ tự thanh toán cho bà T.
Về phía bị đơn, ông Huỳnh Văn Đ. thống nhất với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, đồng ý xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, bà Nguyễn Thị D.T không đồng ý với việc ông Đ. đứng ra vay vốn tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, không đồng ý việc ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp khi bà chưa thu lại số tiền bà đã góp vốn hình thành vào tài sản thế chấp đứng tên ông Đ. Nguồn gốc tài sản thế chấp do bà và ông Nguyễn Văn H. góp vốn, thống nhất đứng tên Công ty TNHH MTV H.N, đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Văn H. Việc Công ty TNHH MTV H.N chuyển nhượng tài sản trên cho ông Huỳnh Văn Đ. thì ông Nguyễn Văn H. không thông báo cho bà biết nên bà không đồng ý việc chuyển nhượng này. Trường hợp nếu Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam xử lý tài sản theo quy định của pháp luật thì bà đề nghị ưu tiên thanh toán khoản tiền góp vốn của bà trước, sau đó mới xử lý tiếp tục thanh toán các khoản vay của ông Đ.
Sau khi nghị án, xét thấy Hợp đồng cho vay số 3016403307/2021-HĐCV/NHCT490 ngày 21/3/2022 và Giấy đề nghị phát hành kiêm thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số 3016403307 ngày 23/3/2022 giữa Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam và ông Huỳnh Văn Đ. được ký kết bởi chủ thể hợp pháp của hai bên, thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự và quy định của Luật Các tổ chức tín dụng nên có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia giao dịch.
Ông Đ. đã vi phạm hợp đồng nên yêu cầu khởi kiện của ngân hàng là có căn cứ. Trên cơ sở đề nghị của VKSND quận Hải Châu, HĐXX đã tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng, buộc ông Huỳnh Văn Đ. phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi theo đúng quy định tại hợp đồng đã ký kết giữa hai bên, trường hợp ông Đ. không thanh toán nợ cho ngân hàng thì tài sản bảo đảm được xử lý để thu hồi nợ, đồng thời không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ngân hàng.
Kiểm sát viên được phân công kiểm sát giải quyết vụ án đã chuẩn bị tốt những nội dung cần thiết trước khi tham gia phiên tòa theo đúng quy chế nghiệp vụ; Kiểm sát viên đã kiểm sát chặt chẽ trình tự thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo đúng quy định của pháp luật, đặt ra những câu hỏi đối với các bên đương sự để làm sáng rõ nội dung vụ án, từ đó đề nghị HĐXX đưa ra phán quyết đúng theo quy định của pháp luật.