Thửa đất bị đơn sử dụng trực tiếp từ năm 1991 đến nay và đóng thuế 21 năm

Nội dung vụ án thể hiện, nguyên đơn trong vụ án là ông V.T.Ch và vợ là bà N.T.Kh (địa chỉ tại phường Sao Đỏ, TP Chí Linh, tỉnh Hải Dương) khởi kiện đề nghị Tòa án xác định toàn bộ diện tích đất 150m2 tại địa chỉ ngõ 2 Nguyễn Huệ, tổ 7, phố Nguyễn Trãi 1, phường Sao Đỏ, TP Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã được UBND huyện Chí Linh cấp cho bà Kh. vào sổ cấp đất số 25/XDCB ngày 4/3/1982 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn trả đất, tháo dỡ di dời tài sản trên đất.

Trong khi đó, phía bị đơn là bà Nguyễn Thị Đông cho biết: Năm 1979, bà công tác và ở tại khu tập thể ban II của Trường Công nhân kỹ thuật điện Chí Linh (nay là ngõ 2, đường Nguyễn Huệ, tổ 7, phố Nguyễn Trãi 1, phường Sao Đỏ, TP Chí Linh). Ngày 25/4/1991, theo quyết định số 42/TDV của Trạm dịch vụ sản xuất kỹ thuật điện và dạy nghề đã nhượng bán 2 gian nhà tập thể giáp đường Nguyễn Huệ ngày nay cho bà.

Khi bà Đông sử dụng đất có cải tạo khu đất tiếp giáp giữa gian nhà tập thể và đường để trồng rau. Năm 1993 bà làm đơn xin cấp đất và đã được UBND thị trấn Sao Đỏ đồng ý cho phép sử dụng mảnh đất này, bà đã đóng thuế đất cho nhà nước từ năm 1994 đến năm 2015. Do đó bà cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ.

leftcenterrightdel
 Thửa đất do bà Đông sử dụng trực tiếp từ năm 1991 đến nay, đóng thuế đất từ năm 1994 đến năm 2015.

Sau đó, TAND thành phố Chí Linh đã xét xử sơ thẩm vụ án và quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xác định diện tích đất 150m2 tại địa chỉ ngõ 2 Nguyễn Huệ, tổ 7, phố Nguyễn Trãi 1, phường Sao Đỏ, TP Chi Linh, tỉnh Hải Dương thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ diện tích đất trên cho nguyên đơn, đồng thời phải tháo dỡ, di dời các công trình xây dựng trái phép trên đất và các loại hoa mầu, vật nuôi và các tài sản khác ra khỏi diện tích đất trên.

Toà án vi phạm quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự về đánh giá chứng cứ

Sau khi xem xét hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ mới xác minh, thu thập được, ngày 30/9/2022, Viện trưởng VKSND thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã ban hành Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-CL kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án số 08/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của TAND thành phố Chí Linh.

Quyết định kháng nghị của VKSND thành phố Chí Linh nêu rõ, Tòa án căn cứ vào Đơn xin cấp đất làm nhà ở của nguyên đơn là bà Kh. được UBND huyện Chí Linh xác nhận ngày 4/3/1982, với nội dung: Đồng ý điều chỉnh đất ở cho bà Kh. tại khu ban II (theo sơ đồ quy hoạch chung), diện tích sử dụng là 150m2; Đơn đề nghị về việc giải quyết tranh chấp đất ở năm 2009 của bà Kh. có xác nhận của ông Nguyễn Trung Vân - nguyên Hiệu trưởng Trường Công nhân kỹ thuật điện Chí Linh “Năm 1982 gia đình bà Kh. được chia cùng gia đình tôi trên lô đất như trong đơn bà Kh. trình bày là đúng sự thật”.

Ông Hoàng Văn Huấn, phó Phòng Công thương, UBND huyện Chí Linh xác nhận “Bà Kh. được UBND huyện Chí Linh cấp 150m2 đất ở khu ban II (khu đất do trường nhiệt điện quản lý đã thanh lý) ngày 4/3/1982 là đúng”, ông Vũ Văn Thành, Bí thư Đảng ủy Thị trấn Sao Đỏ xác nhận “Năm 1982-1985 tôi là Phó Chủ tịch UBND thị trấn Sao Đỏ đã được UBND thị trấn phân công cùng cán bộ quy hoạch cấp huyện giao đất cho bà Kh và một số hộ dân tại lô đất được UBND huyện cấp như trong đơn trình bày là đúng”; việc vợ chồng ông Ch..đóng thuế sử dụng đất đối với thửa đất này từ năm 2012 đến năm 2015 và lời khai của vợ chồng ông Ch. làm căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ, vi phạm quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự về đánh giá chứng cứ.

Theo Viện kiểm sát, tại Đơn xin cấp đất làm nhà ở của bà Kh. được UBND huyện Chí Linh xác nhận ngày 4/3/1982, với nội dung: Đồng ý điều chỉnh đất ở cho bà Kh tại khu ban II (theo sơ đồ quy hoạch chung), diện tích sử dụng là 150m2. Trong nội dung xác nhận của UBND huyện cấp đất cho bà Kh. không có sơ đồ, không có ranh giới, tứ cận cụ thể nên không thể xác định được vị trí đất của vợ chồng bà Kh. được cấp. Vị trí cụ thể của thửa đất được căn cứ vào sơ đồ quy hoạch chung, tuy nhiên TAND thành phố Chí Linh đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ tại các cơ quan thẩm quyền nhưng không thu giữ được sơ đồ quy hoạch này.

Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ghi lời khai của ông Hoàng Văn Huấn, ông Vũ Văn Thành (ông Nguyễn Trung Vân đã chết) thể hiện: Ông Huấn xác định “Việc UBND huyện Chí Linh phê duyệt việc cấp đất cho bà Kh ngày 4/3/1982 là đúng, tuy nhiên theo nội dung đơn thì việc đo đạc, hướng dẫn bà Kh xây dựng do UBND thị trấn Sao Đỏ thực hiện. Sơ đồ quy hoạch và giao đất do thời gian đã lâu nên không còn lưu giữ”, ông Thành xác định “Thời điểm đó (năm 1982) ông xác nhận có giao và chỉ đạo cán bộ địa chính hướng dẫn bà Kh nhận đất chứ ông không trực tiếp đo đạc và bàn giao đất cho gia đình bà Kh nên vị trí thửa đất ông không nắm được”. Như vậy bản thân những người nguyên đơn khai là người trực tiếp đi giao đất cho vợ chồng nguyên đơn có lời khai mâu thuẫn nhau, không xác định được vị trí cụ thể của diện tích 150m2 đất ở khu ban II được UBND huyện Chí Linh giao cho bà Kh.

leftcenterrightdel
 Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-CL ngày 30/9/2022 của VKSND thành phố Chí Linh kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án số 08/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của TAND cùng cấp.

Mặt khác, Bản đồ địa chính lập năm 1992-1993 vẫn thể hiện thửa đất đang tranh chấp là một phần của thửa đất số 89, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.832m2, thể hiện là đất hoang do UBND phường Sao Đỏ quản lý mà chưa thể hiện được tách thửa đất mang tên vợ chồng ông Ch. Không thu thập được tài liệu thể hiện việc UBND huyện Chí Linh thu hồi một phần đất của Trường Công nhân kỹ thuật điện Chí Linh. Đồng thời, theo UBND phường Sao Đỏ, Trường Cao đẳng điện lực Miền Bắc (trước đây là Trường Công nhân kỹ thuật điện Chí Linh) và lời khai của một số nguyên cán bộ, công nhân viên của Trường xác định: Năm 1991 Trường Công nhân kỹ thuật điện Chí Linh mới bàn giao đất và tài sản trên đất cho UBND huyện Chí Linh quản lý. Do đó chưa đủ căn cứ xác định UBND huyện Chí Linh có giao 150m2 đất thuộc khu ban II của Trường Công nhân kỹ thuật điện Chí Linh cho bà Kh năm 1982 hay không.

Ngoài ra, từ năm 1982 đến nay vợ chồng ông Ch không trực tiếp ở, sử dụng thửa đất này. Bà Đông sử dụng trực tiếp thửa đất từ năm 1991 đến nay, đóng thuế đất từ năm 1994 đến năm 2015, năm 2009 được đăng ký bản đồ hiện trạng thửa đất số 52, tờ bản đồ số 22, diện tích 302,1m2 mang tên bà Đông.

Cũng theo Viện kiểm sát, Tòa án căn cứ vào các chứng cứ chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn với nhau, việc đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác để làm căn cứ tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định diện tích đất 150m2 tại địa chỉ ngõ 2 Nguyễn Huệ, tổ 7, phố Nguyễn Trãi 1, phường Sao Đỏ, TP Chí Linh thuộc quyền sử dụng hợp pháp của nguyên đơn, buộc bị đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản là không có căn cứ, vi phạm quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Từ các căn cứ, phân tích nêu trên, VKSND thành phố Chí Linh đã quyết định kháng nghị toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2022/DS-ST ngày 16/9/2022 của TAND thành phố Chí Linh giải quyết vụ án dân sự về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo thủ tục phúc thẩm. Đồng thời, đề nghị TAND tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa bản án dân sự sơ thẩm nêu trên theo hướng: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Hi vọng trong phiên xử tới đây, Toà án cấp phúc thẩm sẽ xem xét, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác, từ đó đưa ra những phán quyết thực sự thấu tình, đạt lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Báo Bảo vệ pháp luật sẽ tiếp tục phản ánh về vụ việc này khi có thông tin mới!

Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về đánh giá chứng cứ quy định: 1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. 2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ.
P.V