|
|
Kiểm sát viên VKSND tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa dân sự. |
Nội dung vụ án:
Nguyên đơn bà Th. cho rằng: mình là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất số 51, tờ bản đồ 20, diện tích 87,5m² tại phường Tân Lập, TP. Buôn Ma Thuột.
Vào năm 1985, thửa đất này là bãi rác tự phát, bà đã xin phép người dân xung quanh để dọn dẹp và dựng nhà ở. Từ đó đến nay, bà Th. đã quản lý và sử dụng ổn định thửa đất này, được nhiều người dân địa phương làm chứng. Tuy nhiên, khi bà Th. làm thủ tục xin cấp Giấy CNQSDĐ thì gia đình ông H. kiến nghị UBND phường ngăn chặn với lý do thửa đất thuộc về bố của ông H.
Buổi hòa giải tại UBND phường năm 2022 không thành công. Bà Th. yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp để tiến hành xin cấp Giấy CNQSDĐ.
Bị đơn ông H. cho rằng: thửa đất trên là do bố mẹ mình nhận sang nhượng tại phường Tân Lập từ ông B. vào năm 1962. Việc chuyển nhượng này không có chứng thực của chính quyền. Năm 1984, gia đình ông H. cho gia đình ông X. mượn đất để dựng nhà tạm vì hoàn cảnh khó khăn. Sau khi ông X. qua đời, gia đình ông X. vẫn được ở nhờ.
Năm 1999, bà L. (con dâu ông X.) đã bán lại căn nhà gỗ trên đất cho gia đình ông H. Tuy nhiên, bà Th. cùng gia đình đã đến phá khóa và chiếm lại đất, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, gia đình ông H. vẫn để cho bà Th. ở nhờ trên đất.
Nay ông H. phản đối yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất của bà Th. và đề nghị Tòa án buộc bà Th. trả lại đất và tài sản cho gia đình ông.
Tòa án tuyên xử
Bác đơn khởi kiện của bà Th. về yêu cầu công nhận quyền sở hữu tài sản đối với thửa đất số 51, tờ bản đồ 20, diện tích 87,5m2. Chấp nhận đơn khởi kiện phản tố của ông H. Xác định thửa đất trên là di sản thừa kế của bố mẹ ông H. Buộc bà Th. có nghĩa vụ hoàn trả thửa này và một nhà xây cấp 4 có diện tích 14,6m2 cho ông H.
Ông H. có nghĩa vụ thanh toán tài sản trên đất cho bà Th. số tiền hơn 235 triệu đông. Và ông H. được tạm thời quản lý di sản trên
Viện kiểm sát đánh giá chứng cứ
Bị đơn H. cho rằng nguồn gốc thửa đất do bố mẹ ông H. nhận sang nhượng từ ông M. (hiện đã chết) theo Giấy bán nhà và sang nhượng đất ngày 10/01/1962. Dưới mục người bán có ghi B., không có chữ ký của bên nhận chuyển nhượng là bố mẹ ông H. Trong khi đó, tại Biên bản xác minh ngày 28/8/2024 tại UBND phường Tân Lập cung cấp: “Hiện nay tại TDP6, phường Tân Lập không có ai tên là M. sinh sống tại địa phương. Địa phương cũng không biết ai tên M. sinh sống tại đâu và làm gì. Vào năm 1962 thì chúng tôi không biết có ông M. sinh sống tại địa phương hay không vì thời gian quá lâu nên không thể nắm rõ”.
Như vậy, giấy bán nhà và sang nhượng đất ngày 10/1/1962 là viết tay, không có người làm chứng và xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, nội dung giấy thể hiện việc bố mẹ ông H. nhận chuyển nhượng từ B., không ghi diện tích đất và số thửa đất cụ thể, nên không có căn cứ xác định thửa đất của bố mẹ ông H. nhận chuyển nhượng theo nội dung giấy bán nhà và đất trên có phải là thửa đất đang tranh chấp với hộ bà Th. hay không?. Ông H. và UBND phường Tân Lập cũng không biết và không cung cấp được địa chỉ của người tên B. để xác minh nguồn gốc đất theo trình bày của bị đơn. Do đó không có căn cứ chứng minh việc bố mẹ ông H. nhận chuyển nhượng đất của ông M., trong đó có thửa đất 51 đang tranh chấp với bà Th.
Bên cạnh đó, quá trình giải quyết sơ thẩm, Tòa án đã xác minh nguồn gốc thửa đất 51 tại UBND phường Tân Lập và có công văn trả lời với nội dung “Trong sổ địa chính và sổ mục kê không thể hiện ai đang quản lý và từ năm nào, việc chuyển nhượng giữa con dâu ông X. và bố mẹ ông H. được BTQ khối 6, phường Tân Lập xác nhận ngày 01/7/1999 không được ghi nhận trong sổ mục kê”.
Ngoài ra, nội dung giấy bán nhà giữa con dâu ông X. với bố mẹ ông H. chỉ thể hiện việc con dâu ông X. bán cho bố mẹ ông H. sườn căn nhà. Đối với diện tích đất 100m2 bố mẹ ông H. cho vợ chồng con dâu ông X. mượn thì trả lại, không có xác nhận của bà Th. hay thể hiện diện tích đất con dâu ông X. mượn nêu trên là thửa đất 51 đang tranh chấp.
Quá trình giải quyết vụ án con dâu ông X. trình bày có bán nhà cho bố mẹ ông H., việc bố mẹ ông H. có cho bà Th. ở nhờ hay không thì con dâu ông X. không biết, trong giấy bán nhà chỉ thể hiện nội dung vợ chồng con dâu ông X. mượn diện tích 100m2.
Do đó Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ “Giấy bán nhà” trên để nhận định cho rằng sau khi con dâu ông X. bán nhà và lấy vàng dọn đi nơi khác sinh sống, thửa đất được gia đình bà Th. chiếm dụng là đánh giá chứng cứ không khách quan, chưa có cơ sở vững chắc.
Viện kiểm sát xét thấy có căn cứ vững chắc cần sửa Bản án sơ thẩm
Từ những tài liệu chứng cứ trên, VKSND tỉnh nhận thấy các bên đều không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh về nguồn gốc thửa đất 51, trong sổ địa chính và sổ mục kê của UBND phường cũng không thể hiện người quản lý đất. Tuy nhiên theo những nội dung đơn hòa giải tại cấp cơ sở xác định việc bà Th. đã quản lý sử dụng thửa đất 51 từ năm 1984 đến nay. Trên đất có 02 căn nhà cấp 4 do bà Th. xây dựng từ năm 2001 dựa trên phần nhà cũ xây dựng năm 1986.
Ngoài ra ngày 9/4/2013 UBND phường Tân Lập có Quyết định số 43/QĐ-UBND về việc chi hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho bà Th. là đối tượng gia đình liệt sỹ, theo Quyết định 117-118 của Chính phủ với số tiền 8 triệu đồng (từ Quỹ đền ơn đáp nghĩa phường).
Xét thấy việc bà Th. đã quản lý sử dụng thửa đất 51 và xây nhà ở ổn định trên đất từ năm 1984 đến nay đã 40 năm, bị đơn biết nhưng không có ý kiến phản đối hay khởi kiện tranh chấp đến cơ quan có thẩm quyền về việc bà Th. xây nhà ở trên đất.
Vì vậy, căn cứ Điều 236 Bộ luật dân sự quy định về việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật để xác định thửa đất 51 và tài sản trên đất thuộc quyền sở hữu của bà Th. là có cơ sở, nên cần sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Th., không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông H./.