Nội dung vụ việc

Ngày 29/9/2022, TAND thành phố Thái Bình mở phiên toà sơ thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp đất đai (kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất) giữa các đồng nguyên đơn do ông Đ.N.V là người được uỷ quyền đại diện tham gia tố tụng với bị đơn là ông Đặng Ngọc Canh (SN: 1944), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Đào Thị Loan (vợ ông Canh) cùng trú tại xóm 7, thôn Hưng Đạo, xã Vũ Đông, TP. Thái Bình (ông Canh, bà Loan uỷ quyền cho anh Đặng Ngọc Kiên tham gia tố tụng).

leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất". (Ảnh minh hoạ)

Theo hồ sơ vụ án và trình bày của bị đơn thể hiện, nguồn gốc diện tích đất 513m2 tại khu vực hội trường cũ của UBND xã Vũ Đông trong đó có 139m2 đất đang tranh chấp là của vợ chồng ông Đặng Ngọc Canh và bà Đào Thị Loan. Năm 1993 ông Canh là người trực tiếp đứng tên mua đất của xã, khi mua ông Canh đã nộp đủ tiền cho thủ quỹ, kế toán của xã số tiền là 6.630.000 đồng (có phiếu thu và các chứng từ). Số tiền mua đất là tiền riêng của vợ chồng ông Canh. Mục đích mua đất là để cho các con làm nhà ở sau này. Sau đó, ông Canh được UBND xã đo đạc bàn giao đúng vị trí, đất sử dụng ổn định lâu dài từ trước ngày 15/10/1993 cho đến năm 2021 không có ai tranh chấp, khi mua trên đất không có ngôi mộ, đất nằm trong quy hoạch khu dân cư.

Sau khi mua đất xong gia đình ông Canh đã bỏ ra nhiều công sức, tiền bạc để tôn tạo, tháo gỡ phần móng của nhà kho trại giống trước đây của xã nằm trên đất, lấp ao, xây tường bao quanh thửa đất để sử dụng. Trên sổ sách, sơ đồ, bản đồ địa chính tại xã và Văn phòng Đăng ký đất đai hiện nay là đất của gia đình ông Canh. Hàng năm ông Canh là người thực hiện các nghĩa vụ thuế đất theo đúng quy định pháp luật và đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai 2013.

Điều đáng nói, trước đó, vào năm 2012 khi xã đo đạc, kiểm tra vẽ bản đồ theo dự án Vlap cho toàn dân nhưng gia đình ông Canh không nhận được bất kỳ ý kiến hay tranh chấp gì tại thời điểm này. Chưa kể, nhà thờ hiện nay là đất ông Canh mua năm 1989 với mục đích để giữ gìn đất tổ tiên. Năm 2003, vì lòng hiếu thảo, ông Canh đã hiến cả khu đất mấy trăm mét vuông đất này để xây nhà thờ cho anh em dòng tộc tụ họp thờ cúng tổ tiên mà ông không lấy của ai trong họ bất cứ một đồng nào.

leftcenterrightdel
 Ông Canh bên khu đất của gia đình đã mua của xã, quản lý và sử dụng ổn định gần 30 năm nay. 

Đối với văn bản ngày 22/3/1998 ghi lại ý kiến, nguyện vọng của cụ Ng và cụ V sau thời điểm vợ chồng ông Canh mua đất 5 năm, bị đơn cho rằng, không có căn cứ hay bất kỳ cơ sở nào chứng minh phần đất ông Canh mua trên đó có phần mộ của cụ tổ và điều này ngay lúc mua bán đất UBND xã cũng không hề đề cập đến. Mặt khác các cụ không hề xác định chính xác vị trí mộ tổ nằm ở đâu và không nói mộ của ai, tên gì, chôn cất năm nào và ai là người mua đất cũng như mộ tổ nằm ở thửa đất do ông Canh mua hay thửa đất do hai cụ mua mà ông Canh chưa được bàn giao giấy tờ và vị trí thửa đất như lời 2 cụ nói.

Mặt khác, bị đơn cho rằng, văn bản đề ngày 22/3/1998 có dấu hiệu của sự sửa chữa, giả mạo, ghi thêm nội dung so với văn bản ban đầu. Văn bản ban đầu chỉ có bị đơn và 2 cụ V và cụ Ng, không có mặt ông Đ.X.H và ông Đ.N.V. Chữ ký của ông H không phải do ông H ký. Đối với Vi bằng phía nguyên đơn nộp cho Tòa án, phía bị đơn đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định tư pháp file ghi âm và vi bằng để xác minh làm rõ tính chính xác, khách quan của Vi bằng này.

Ngoài ra, bị đơn cũng đã có văn bản đề nghị Toà án mời đại diện UBND, cán bộ địa chính xã Vũ Đông cùng các nguyên cán bộ xã thời điểm bán, trực tiếp bàn giao đất (năm 1993) và những người dân xung quanh khu vực thửa đất biết rõ sự việc có mặt tại Tòa để xác minh làm rõ trên đất có mộ hay không, nguyên đơn có góp tiền mua chung, sử dụng chung hay không nhưng không được Toà án chấp nhận. Bản thân những người này đã xác nhận trong đơn của ông Canh (năm 2021) là trên đất không có mộ, đất ông Canh mua không có ai mua chung, sử dụng chung.

Tuy nhiên sau đó, tại Bản án số 24/2022/DS-ST ngày 29/9/2022, TAND thành phố Thái Bình đã xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn; buộc vợ chồng ông Canh, bà Loan phải trả lại cho các đồng nguyên đơn 77,36m2 đất tại thửa 370 và 371 tờ bản đồ số 24 bản đồ Vlap tại xóm 7, thôn Hưng Đạo, xã Vũ Đông, TP Thái Bình. Các đồng nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giá trị tài sản trên đất gồm công trình nghi mộ và 4m tường bao số tiền gần 1,6 triệu đồng.

Viện kiểm sát: Quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bị ảnh hưởng

Sau phiên toà sơ thẩm, bị đơn đã có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, đánh giá khách quan, đầy đủ tất cả những chứng cứ, hồ sơ, tài liệu mà bị đơn đã cung cấp cho Toà án; triệu tập 1 đồng nguyên đơn là ông Đ.X.D để xác minh việc ông này giả mạo chữ ký của người đã chết vào văn bản ngày 22/3/1998.

Đồng thời yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn, khẳng định diện tích đất trên là của vợ chồng ông Canh và Loan, không ai đóng góp tiền cho bị đơn khi mua đất. Đối với ngôi mộ mà gia đình bị đơn tự xây trên đất thì gia đình bị đơn sẽ tiếp tục quản lý, trông nom để không làm ảnh hưởng đến tâm linh và phần mộ đúng như lời căn dặn và nguyện vọng của hai cụ Ng, cụ V trong văn bản ngày 22/3/1998.

Liên quan đến vụ việc, ngày 14/10/2022, VKSND thành phố Thái Bình đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐKNPT-VKS-DS đối với Bản án số 24/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của TAND thành phố Thái Bình.

leftcenterrightdel
 Quyết định kháng nghị phúc thẩm của VKSND thành phố Thái Bình đã chỉ ra nhiều vi phạm trong bản án sơ thẩm của TAND cùng cấp.

Theo VKSND thành phố Thái Bình, Bản án số 24/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của TAND thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình có các vi phạm về nội dung trong việc đánh giá chứng cứ. Cụ thể, tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Đặng Ngọc Kiên có đề nghị giám định file ghi âm của buổi họp ngày 13/1/2021 do nguyên đơn là ông V cung cấp được lập thành Vi bằng ngày 25/6/2021. Theo khoản 3 Điều 2 Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 8/1/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại có quy định “Vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do thừa phát lại trực tiếp chứng kiến lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan tổ chức theo quy định của Nghị định này”.

Do vậy Vi bằng lập ngày 25/6/2021 chỉ là bóc tách nội dung file ghi âm của buổi họp ngày 13/1/2021 chứ không có giá trị khẳng định tính giám định tư pháp của file ghi âm. Mặt khác trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người đại diện theo ủy quyền của họ đều cho rằng file ghi âm không khách quan nhưng Thẩm phán không có văn bản giải thích cho các đương sự biết hết quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng để họ có đơn yêu cầu đề nghị giám định và nghĩa vụ nộp chi phí tố tụng đối yêu cầu của họ theo quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự.

Cũng theo Viện kiểm sát, việc Tòa án căn cứ vào Vi bằng ngày 25/6/2021 để xác định ông V có đóng góp 1 triệu đồng để mua phần đất có ngôi mộ là có thật để chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là chưa đảm bảo tính khánh quan toàn diện và đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ, vi phạm quy định tại Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Từ những phân tích trên, VKSND thành phố Thái Bình đã quyết định kháng nghị đối với bản án sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của TAND thành phố Thái Bình, đồng thời đề nghị TAND tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm theo hướng mà Viện kiểm sát đã phân tích trong Quyết định kháng nghị này.

Báo BVPL sẽ tiếp tục cập nhật thông tin về vụ án này khi có diễn biến mới.

P.V