Thông qua công tác kiểm sát Bản án số 08/2023 ngày 31/3/2023 của TAND huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu về việc giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” giữa Nguyên đơn là chị Lương Thị T. (SN 1991) và Bị đơn là anh Lò Văn H. (SN 1988) cùng trú bản Pa Nậm Cúm, xã Ma Li Pho, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. VKSND tỉnh Lai Châu nhận thấy có một số sai phạm cần khắc phục.
|
|
Kiểm sát viên VKSND huyện Phong Thổ trong một phiên tòa (Hình minh họa). |
Theo Bản án số 08/2023 ngày 31/3/2023 của TAND huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu thể hiện: Ngày 20/12/2006, chị Lương Thị T. và anh Lò Văn H. đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoang Thèn, huyện Phong Thổ trên cơ sở tự nguyện.
Trong quá trình sinh sống, vợ chồng anh chị sinh được 2 con chung. Đến năm 2017, phát sinh mâu thuẫn từ chồng. Từ năm 2021, hai vợ chồng không còn quan tâm nhau và đã sống ly thân được 2 năm, chị T. nhận thấy không còn tình cảm với chồng nên đề nghị TAND huyện Phong Thổ giải quyết ly hôn với anh H. và yêu cầu giải quyết về 2 con chung.
Quá trình giải quyết vụ án, TAND huyện Phong Thổ đã nhiều lần triệu tâp ạnh H. đến Tòa án để giải quyết nhưng anh H. không đến và không có lí do chính đáng, cũng không gửi cho Tòa án ý kiến trình bày của anh đối với nội dung chị T. khởi kiện. TAND huyện Phong Thổ đã mở phiên tòa xét xử vắng mặt anh H. theo quy định pháp luật.
Tại Bản án số 08/2023, TAND huyện Phong Thổ tuyên xử, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về quan hệ hôn nhân, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị T. và anh H.
Về con chung, giao cháu Lò Văn Đ. (SN 2008) cho anh H. trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục khi đủ 18 tuổi; giao cháu Lò Khánh L. (SN 2013) cho chị T. trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục khi đủ 18 tuổi. Ạnh H. và chị T. được quyền thăm nom, chăm sóc.
Theo nội dung đơn khởi kiện, nội dung vụ án và diễn biến quá trình thụ lý, giải quyết vụ án của TAND huyện Phong Thổ, VKSND tỉnh Lai Châu nhận thấy có một vi phạm như sau:
Về yêu cầu giải quyết đơn ly hôn: Chị T. có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh H., anh H. không có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị T. Như vậy, thuộc trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên.
Về quan hệ hôn nhân giữa chị T. và anh H.: Chị T. và anh H. đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoang Thèn, tuy nhiên tại thời điểm đăng ký kết hôn, chị T. và anh H. đều chưa đủ tuổi kết hôn, do vậy việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa chị T. và anh H. đã vi phạm Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Về quy định của pháp luật về xử lí việc kết hôn trái pháp luật: TAND huyện Phong Thổ đã tuyên, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Lương Thị T. và anh Lò Văn H. là không thực hiện đúng quy định tại Điều 11, 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và điểm b Khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016 của Liên ngành Trung ương hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Bên canh đó, việc TAND huyện Phong Thổ tuyên không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị T. và anh H. dẫn đến Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của UBND xã Hoang Thèn mặc dù đã vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 nhưng tại không bị tuyên hủy theo quy định pháp luật.
Mặt khác, quá trình giải quyết của TAND huyện Phong Thổ nhận định, việc đăng ký kết hôn giữa chị T. và anh H. đã vi phạm điều kiện kết hôn nhưng lại không đưa UBND xã Hoang Thèn là nơi đăng ký kết hôn vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã ảnh hưởng đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp cũng như nghĩa vụ của UBND xã Hoang Thèn,
Vì các lẽ trên, VKSND tỉnh Lai Châu đã Kiến nghị đến Chánh án TAND huyện Phong Thổ, tổ chức kiểm điểm, khắc phục, rút kinh nghiệm, làm rõ về hành vi vi phạm đã xảy ra. Chấn chỉnh, xử lí kịp thời theo quy định của pháp luật không để những vi phạm tương tự xảy ra trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, tăng cường hơn nữa công tác quản lí, chỉ đạo điều hành, công tác thụ lí, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình xảy ra trên địa bàn.