Tội chứa mại dâm được quy định tại Điều 327 Bộ luật hình sự 2015.

Khách thể:

Tội chứa mại dâm là tội xâm phạm đến đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đến đời sống văn hoá, trật tự trị an xã hội.

Mặt khách quan:

      Người phạm tội thực hiện duy nhất một hành vi, đó là hành vi chứa chấp việc mại dâm với nhiều thủ đoạn khác nhau như: Sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để  thực hiện việc mua dâm, bán dâm.

      Khi xác định hành vi phạm tội chứa mại dâm trong một số trường hợp cần chú ý:

 Chứa mại dâm là chứa việc mua dâm, bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn người bán và hai người phải thực hiện việc giao cấu, bởi lẽ bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vận chuyển khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.

 Nếu chỉ chứa người bán dâm (gái mại dâm) còn việc mua, bán dâm được thực hiện ở địa điểm khác không phải là địa điểm người bán dâm ở thì người có hành vi chứa người bán dâm không phạm tội chứa mại dâm; nếu người có địa điểm cho gái mại dâm thuê mà giới thiệu cho người mua dâm thì hành vi “giới thiệu” đó là hành vi môi giới mại dâm.

Địa điểm mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn để  thực hiện việc mua dâm, bán dâm tương đối đa dạng; có thể chỉ là một chiếc thuyền (ghe); một lều vó, một phòng nhỏ trong quán Cà phê, nhà tắm, nhà vệ sinh, cacbin xe.v.v…

Phương tiện mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn để thực hiện việc mua dâm, bán dâm tuy không phải là địa điểm nhưng có phục vụ cho việc thực hiện mại dâm như: Giường, chiếu, chăn màn, khăn lau, thuốc kích dục.v.v…

Trường hợp cung cấp các phương tiện tránh thai như: Bao cao su, thuốc tránh thai cho người bán dâm thì cần phải phân biệt: Nếu biết có việc mại dâm mà cung cấp thì mới bị coi là chứa mại dâm, nếu biết là gái bán dâm mà cung cấp thuốc tránh thai hoặc bao cao su còn việc thực hiện hành vi mại dâm ở đâu vào lúc nào người cung cấp bao cao su không biết thì không bị coi là chứa mại dâm.

Trường hợp chứa hai người đồng giới để họ làm tình với nhau thì không coi là hành vi chứa mại dâm vì không có việc giao cấu.

Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ… thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về” tội chứa mại dâm”.

Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ… thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm”.

 Hậu quả

 Đối với tội chứa mại dâm, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.

Chủ thể:

Là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 12 BLHS thì người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật, người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.

 Mặt chủ quan:

Tội chứa mại dâm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Một số tình tiết tăng nặng định khung của tội chứa mại dâm

- Có tổ chức: Phạm tội chứa mại dâm có tổ chức là hình thức đồng phạm chứa mại dâm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (Khoản 2 Điều 17 BLHS 2015).
- Cưỡng bức mại dâm: Cưỡng bức mại dâm là trường hợp ép buộc người khác phải bán dâm trái với ý muốn của họ.
- Phạm tội 02 lần trở lên: Theo hướng dẫn tại mục 4 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì: “Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” đối với người chứa mại dâm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn);
b) Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian;
c) Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.
- Tái phạm nguy hiểm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS thì người phạm tội chứa mại dâm bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu:
1) Đã bị kết án về tội chứa mại dâm (theo khoản 2, 3, 4 Điều 327 BLHS), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa mại dâm (theo khoản 2, 3, 4 Điều 327);
2) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa mại dâm.

Hình phạt

– Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành 04 khung, cụ thể như sau:

a) Khung một (khoản 1).

– Có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

b) Khung hai (khoản 2).

– Có mức phạt từ 05 năm đến 10 năm.

c) Khung ba (khoản 3).

– Có mức phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

d) Khung bốn (khoản 4).

– Có mức phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Hình phạt bổ sung

 Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế từ 01 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 

 

Luật sư: Nguyễn Văn Lâm(Đoàn Luật sư Hà Nội)