Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây hại đến sức khỏe người khác, được xác định bằng thương tích cụ thể. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người. Thông thường. Hành vi cố ý gây thương tích bị coi là tội phạm khi mức độ thương tật của người bị hại từ 11% trở lên hoặc đánh người gây thương tích dưới 11% nhưng thuộc vào các trường hợp đặc biệt căn cứ theo Bộ luật Hình sự hiện hành.

Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định về tội "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác". Theo đó chế tài với tội này như sau:

Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

Theo quy định tại khoản 1 điều 134 BLHS 2015, phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Các trường hợp đó cụ thể là:

Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên: Tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn: “Dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17.4.2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Do vậy, hung khí nguy hiểm bao gồm cả vũ khí (súng các loại, bom, mìn, lựu đạn…) và phương tiện nguy hiểm (búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn); còn thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người có thể kể đến như dùng bom xăng…

Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Hóa chất nguy hiểm được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 3 Thông tư 04/2012/TT-BCT quy định phân loại và ghi nhãn hóa chất do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành, bao gồm các đặc tính như dễ nổ, ăn mòn mạnh, oxy hóa mạnh…

Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân: Khoản 1 mục I Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP quy định, cấu tật nhẹ là trạng thái bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân dù tỷ lệ thương tật dưới 11%

Phạm tội 02 lần trở lên: Đó là trường hợp phạm tội với nhiều lần, cho thấy tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

Phạm tội đối với 02 người trở lên: Trường hợp phạm tội với nhiều người, cho thấy tính nguy hiểm của công cụ, thủ đoạn mà đối tượng thực hiện hành vi có khả năng tác động và gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho nhiều người.

Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ: Ở đây ta cần lưu ý với trường hợp phụ nữ có thai. Chỉ khi tội phạm biết và đủ căn cứ để biết được rằng người phụ nữ này đang mang thai mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội thì mới thuộc trường hợp này.

Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình: Là những người có quan hệ ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, dạy dỗ đối với người thực hiện hành vi. Quy định này đề cao giá trị đạo đức trong xã hội trước hành vi phạm tội.

Phạm tội có tổ chức: Trường hợp có từ 02 người trở lên, bàn bạc, cấu kết để cùng thực hiện hành vi (đồng phạm).

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Là hành vi cố ý gây thương tích của những người có chức vụ, quyền hạn nhưng không liên quan đến công vụ của người đó.

Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc: Đây là những đối tượng bị kiểm soát và đang chấp hành án hình sự hoặc hành chính.

Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê: Người thuê và người được thuê gây thương tích cho người khác đều được coi là nghiêm trọng hơn trường hợp gây thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe dưới 11% thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Có tính chất côn đồ: Theo Công văn số 38/ NCPL ngày 06-01-1976 của Toà án nhân dân tối cao và Kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995, phạm tội có tính chất côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một lý do nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người.

Tái phạm nguy hiểm: Căn cứ theo khoản 2 điều 53 BLHS 2015 để xác định.

Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Trong trường hợp phạm tội này người phạm tội gây thương tích cho nạn nhân là để cản trở việc thi hành công vụ của họ hoặc vì lý do công vụ của người khác mà gây ra thương tích.

Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm

Khoản 2 căn cứ vào tỉ lệ tổn hại sức khỏe để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

Phạt tù từ 04 năm đến 07 năm

Khoản 3 căn cứ tỉ lệ tổn hại sức khỏe để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.

Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm

Khoản 4 căn cứ tỉ lệ tổn hại sức khỏe để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm

Khoản 5 căn cứ tỉ lệ tổn hại sức khỏe để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân

Khoản 6 căn cứ tỉ lệ tổn hại sức khỏe và các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:  Làm chết 02 người trở lên;  Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội

Bộ luật Hình sự 2015 cũng quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích, theo đó: Người  chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Về bồi thường thiệt hại:

Chủ thể của hành vi cố ý gây thương tích ngoài việc phải chấp hành trách nhiệm hình sự hoặc xử phạt hành chính còn có nguy cơ phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân nếu gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của họ. Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 đã quy định cụ thể về bồi thượng thiệt hại do sứa khỏe bị xâm hại như sau:

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

d) Thiệt hại khác do luật quy định

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

 

 

Luật sư: Đặng Anh Đức (Đoàn Luật sư Hà Nội)