TAND tối cao vừa dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nghiên cứu, đóng góp ý kiến.
Các nội dung của thông báo giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị
Về thông báo giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, dự thảo Nghị quyết nêu rõ: Thông báo giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là văn bản tố tụng của người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về việc không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị đề nghị kháng nghị.
Thông báo giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm phải có các nội dung chính đó là: Số, ngày, tháng, năm của thông báo giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị.
Tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có đề nghị, thông báo, kiến nghị; Ngày, tháng, năm gửi đơn đề nghị, văn bản thông báo, kiến nghị.
Số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị đề nghị kháng nghị.
Nhận xét, phân tích về từng vấn đề pháp lý trong bản án, quyết định mà cơ quan, tổ chức, cá nhân cho là có vi phạm, sai lầm cần phải xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; tình tiết mà cơ quan, tổ chức, cá nhân cho là tình tiết mới cần phải xem xét theo thủ tục tái thẩm và nêu rõ lý do không kháng nghị.
Thông báo giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có đề nghị, thông báo, kiến nghị.
Cụ thể căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Theo dự thảo Nghị quyết, các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đó là: Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau: Kết luận của Tòa án không được khẳng định bằng các chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử đã không xem xét chứng cứ có ảnh hưởng cơ bản đến kết luận trong bản án, quyết định.
Còn tồn tại những chứng cứ mâu thuẫn nhau có ý nghĩa quan trọng trong việc ra phán quyết nhưng Tòa án chưa làm rõ các chứng cứ này đã chấp nhận một trong các chứng cứ đối lập mà không nêu ra những căn cứ của việc chấp nhận những chứng cứ này và bác bỏ chứng cứ khác.
|
|
Quang cảnh phiên xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải. (Ảnh minh hoạ -TTXVN) |
Thiếu những chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án nhưng Tòa án không đề nghị bổ sung, làm rõ mà vẫn đưa ra quyết định.
Kết luận trong bản án có mâu thuẫn cơ bản với tài liệu chứng cứ thu thập được của người bị kết án, người tham gia tố tụng khác và đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự.
Bên cạnh đó, căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc quyết định về tội danh không đúng, hình phạt không đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội; hạn chế hoặc tước một số quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, đương sự; xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí, lệ phí không đúng quy định khi thuộc một trong các trường hợp được quy định.
Cụ thể, Lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền.
Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã hết thời hiện truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác.
Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; Truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại).
Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt, người câm, người điếc, người mù hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt.
Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự.
Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án.
Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật.
Thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định; Xét xử không đúng thẩm quyền; Không thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên toà.
Không tuyên phần kháng cáo; quyền viết đơn xin ân giảm đối với trường hợp bị cáo bị kết án tử hình.
Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét phần kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Ngoài ra, theo dự thảo Nghị quyết, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là sai lầm trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật hình sự và pháp luật có liên quan khác dẫn đến việc ra phán quyết không đúng với sự thật khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án, đương sự trong vụ án hình sự.
Toà án, Viện kiểm sát nhận đơn phải ghi vào sổ và cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự
Liên quan đến thủ tục nhận và xử lý đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, dự thảo Nghị quyết quy định: Tòa án, Viện kiểm sát nhận đơn đề nghị do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án, Viện kiểm sát hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính phải ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự. Trường hợp đương sự gửi đơn đề nghị nhiều lần thì Tòa án, Viện kiểm sát chỉ cấp giấy xác nhận đã nhận đơn một lần đối với đơn đề nghị gửi lần đầu.
Tòa án, Viện kiểm sát thụ lý đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm khi có đủ các điều kiện đó là: Đương sự gửi đơn đề nghị trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 256 Luật Tố tụng hành chính và hướng dẫn tại Nghị quyết này.
Đơn đề nghị có đầy đủ các nội dung quy định tại Điều 328 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 257 Luật Tố tụng hành chính.
Tòa án, Viện kiểm sát trả lại đơn đề nghị, nêu rõ lý do cho đương sự trong những trường hợp sau: Hết thời hạn 1 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà đương sự mới gửi đơn đề nghị hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 11 của Nghị quyết này mới chuyển đơn đề nghị của đương sự.
Hết thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát mà người gửi đơn không sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị; các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Các cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Theo dự thảo Nghị quyết, căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 281 Luật Tố tụng hành chính được hiểu như sau: Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án là trường hợp tình tiết có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn vụ án tồn tại khách quan trong quá trình giải quyết vụ án nhưng đương sự không biết hoặc không thể biết trong quá trình giải quyết vụ án.
Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ là trường hợp người giám định đưa ra kết luận giám định không trung thực, không có căn cứ, không phản ánh đúng sự thật khách quan của đối tượng giám định; người phiên dịch đưa ra lời dịch không trung thực, không khách quan, không đúng nghĩa; tài liệu, chứng cứ mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án bị giả mạo.
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật là trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm cho nội dung của hồ sơ sau khi làm sai lệch không còn phù hợp với nội dung hồ sơ ban đầu; các tình tiết, tài liệu, chứng cứ của vụ án đã rõ ràng nhưng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân vẫn cố ý đưa ra kết luận không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.
Theo cơ quan chủ trì soạn thảo, Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại các chương XXV, XXVI của Bộ luật Tố tụng hình sự, các chương XX, XXI của Bộ luật Tố tụng dân sự, các chương XV, XVI của Luật Tố tụng hành chính. Nghị quyết quy định về các nội dung như: Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm; Đối tượng bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; Xác định thời hạn kháng nghị; Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị; Tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm; Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm; Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm; Đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm; Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại khoản 2 Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự... |
Xem toàn văn dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn để lấy ý kiến tại đây: du-thao-nq.docx