Ly hôn, khởi kiện chia tài sản chung

 Anh Hoàng Văn N. và chị Trần Thị Q. có quan hệ vợ chồng và đã ly hôn vào năm 2021, theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 78/2021/QĐST-HNGĐ của TAND TP Sầm Sơn. Theo đó, về phần tài sản và công nợ chung, anh N., chị Q. tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết. Ngày 19/02/2024, anh N. khởi kiện đề nghị TAND huyện Thọ Xuân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là 1 ngôi nhà cấp bốn có trị giá trên 434 triệu đồng, cho mỗi người được hưởng ½ giá trị, được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên bà Lê Thị Ng. - mẹ anh N.

leftcenterrightdel
 VKSND huyện Thọ Xuân sinh hoạt chuyên đề dân sự (ảnh minh hoạ).

Quá trình giải quyết tại Tòa  án, chị Q. yêu cầu chia đôi công nợ chung với anh N. là trên 1 tỉ đồng (gồm nợ gốc 464 triệu đồng, lãi trên 627 triệu đồng). Các khoản nợ này dùng để xây nhà và mua đất, chị Q. vay của ông Trần Viết B., bà Lê Thị H., chị Đỗ Thị L. và chị Trần Thị H1;  Ông B., bà H., chị L, chị H1 đồng ý với yêu cầu của chị Q. Chị Q. yêu cầu được trích công sức duy trì, tôn tạo thửa đất và có nguyện vọng được lấy nhà đất.

Bản án sơ thẩm có nhiều vi phạm

Bản án sơ thẩm số 200/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của TAND huyện Thọ Xuân: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Hoàng Văn N.; giao cho bà Lê Thị Ng. được quyền sở hữu toàn bộ tài sản chung của anh N. và chị Q. có trị giá trên 434 triệu đồng; Buộc bà Ng. giao cho anh N. và chị Q. mỗi người số tiền là trên 217 triệu đồng.

Về nghĩa vụ trả nợ: Chấp nhận tổng nợ chung (tiền gốc vay) là 464 triệu đồng, buộc chị Q. trả nợ cho ông Trần Viết B., bà Lê Thị H., chị Trần Thị H1, chị Đỗ Thị L. tổng số tiền 464 triệu đồng; Buộc anh N. phải giao lại cho chị Trần Thị Q. 1/2 nợ chung là 232 triệu đồng.

Về án phí: Buộc anh N. và chị Q. phải chịu án phí DSST về nghĩa vụ trả nợ là 11.600.000 đồng. Buộc chị Trần Thị H1 phải chịu án phí DSST là 10.750.000 đồng; Chị Đỗ Thị L phải chịu án phí DSST là 4.100.000 đồng. Miễn nộp tiền án phí DSST cho ông Trần Viết B và bà Lê Thị H.

Ngoài ra, bản án còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm có những vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Thứ nhất,, vi phạm trong việc thụ lý yêu cầu phản tố: Khi khởi kiện, nguyên đơn anh N. chỉ yêu cầu chia tài sản chung là ngôi nhà cấp 4, chị Q. có yêu cầu chia phần nợ chung. Đây là một trong những nội dung cần giải quyết trong vụ án hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1, Điều 28 BLTTDS, không phải là yêu cầu phản tố theo quy định tại Điều 200 BLTTDS. Tuy nhiên, TAND huyện Thọ Xuân thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn là không đúng quy định của pháp luật.

Thứ 2, vi phạm trong việc tính án phí: Đối với yêu cầu của chị Q. về công nợ chung buộc anh N. và chị Q. phải trả tổng số tiền trên 1 tỉ đồng. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông B., bà H., chị L., chị H1 đồng ý với yêu cầu của chị Q. Tuy nhiên, những người liên quan này không có yêu cầu độc lập mà chỉ thống nhất đối với nội dung yêu cầu của chị Q.

Bản án nhận định, anh N. và chị Q. chỉ có khoản nợ chung là số tiền gốc và chia cho mỗi người có trách nhiệm trả nợ tiền gốc, còn phần lãi suất không được chấp nhận nên anh N. và chị Q. không phải trả khoản tiền lãi này. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm lại tính án phí đối với phần tiền lãi không được chấp nhận và buộc những người có quyền lợi liên quan phải chịu là không đúng theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Toà chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát

Thông qua công tác  kiểm sát hồ sơ, bản án, VKSND huyện Thọ Xuân đã ban hành kháng nghị, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm nêu trên về phần tính án phí và áp dụng điều luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm kháng nghị và được HĐXX phúc thẩm chấp nhận kháng nghị, sửa Bản án sơ thẩm số 200/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của TAND huyện Thọ Xuân.

Huyền Lê - Bảo Châu