Thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án Đỗ Quốc C và các đồng phạm về tội "Xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông" bị TAND cấp cao tại Đà Nẵng sửa bản án sơ thẩm về biện pháp tư pháp; VKSND cấp cao tại Đà Nẵng (Viện cấp cao 2) vừa ban hành Thông báo số 75/TB-VC2-V1 ngày 7/10/2024 rút kinh nghiệm đối với việc giải quyết vụ án này.
Nội dung vụ án thể hiện, trong khoảng thời gian từ tháng 9/2022 đến ngày 31/12/2022 và từ tháng 2/2023 đến ngày 21/3/2023, theo yêu cầu của một người có tên "Lý Phong” (không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể), bị cáo Đỗ Quốc C đã bàn bạc thống nhất với các bị cáo Đỗ Quốc B, Phạm Đức A và Phùng Văn S sử dụng xe ô tô gắn các thiết bị giả trạm BTS để di chuyển trên các tuyến đường có mật độ dân cư đông ở các đô thị thuộc thành phố Q, thành phố Đ, tỉnh H, tỉnh G nhằm xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông Viettel, Mobifone để phát tán các tin nhắn rác, gây mất sóng hoặc giảm chất lượng sóng mạng viễn thông của các thuê bao di động Viettel và Mobifone trong phạm vi phát sóng.
Các bị cáo được "Lý Phong" chi trả tiền thông qua bị cáo Đỗ Quốc C, tổng cộng là 194.563.000 đồng; trong đó, bị cáo Đỗ Quốc C đã chi trả cho các bị cáo Đỗ Quốc B là 113.273.000 đồng, bị cáo Phạm Đức A là 31.800.000 đồng, bị cáo Phùng Văn S là 17.440.000 đồng và bị cáo Đỗ Quốc C hưởng số tiền là 32.050.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án thể hiện: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2024/HS-ST ngày 12/4/2024 của TAND tỉnh Q tuyên bố các bị cáo Đỗ Quốc C, Đỗ Quốc B, Phạm Đức A, Phùng Văn S phạm tội: "Xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông".
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 289; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Đỗ Quốc B 5 năm 6 tháng tù; xử phạt bị cáo Phạm Đức A, Phùng Văn S cùng mức án 5 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên xử: Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe ô tô BKS 92A- 237.80 của bị cáo Đỗ Quốc B và trả lại 1/2 giá trị chiếc xe ô tô nêu trên cho bà Nguyễn Thị Như T.
Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe ô tô BKS 92A- 173.05 của bị cáo Phùng Văn S và trả lại 1/2 giá trị chiếc xe ô tô nêu trên cho bà Dương Thị Khánh H.
Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe ô tô BKS 92A- 061.97 của bị cáo Phạm Đức A và trả lại 1/2 giá trị chiếc xe ô tô nêu trên cho bà Trần Thị Thuỳ T.
Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên mức án đối với bị cáo Đỗ Quốc C; án phí hình sự sơ thẩm, xử lý vật chứng khác và quyền kháng cáo.
Ngày 9/5/2024, Viện trưởng Viện cấp cao 2 ban hành Quyết định số 27/2024/QĐ-VC2 kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2024/HS-ST ngày 12/4/2024 của TAND tỉnh Q về phần xử lý vật chứng. Đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm nêu trên về phần xử lý vật chứng theo hướng tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước toàn bộ các xe ô tô BKS 92A-237.80 của bị cáo Đỗ Quốc B, xe ô tô BKS 92A-173.05 của bị cáo Phùng Văn S, xe ô tô BKS 92A-061.97 của bị cáo Phạm Đức A.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện cấp cao 2 đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện cấp cao 2.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 268/2024/HS-PT ngày 20/6/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã quyết định: Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện cấp cao 2, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2024/HS-ST ngày 12/4/2024 của TAND tỉnh Q về phần xử lý vật chứng vụ án.
Trong vụ án trên, theo Viện cấp cao 2 có những vấn đề cần rút kinh nghiệm. Cụ thể, Bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo Đỗ Quốc C, Đỗ Quốc B, Phạm Đức A, Phùng Văn S về tội: "Xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông" là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm tuyên tịch thu 1/2 giá trị của các xe ô tô BKS 92A-237.80, xe ô tô BKS 92A - 173.05, xe ô tô BKS 92A-061.97 của các bị cáo Đỗ Quốc B, Phạm Đức A, Phùng Văn S và tuyên trả lại 1/2 giá trị xe còn còn lại cho vợ của các bị cáo là không đúng quy định pháp luật.
Bởi lẽ: Trong vụ án này, các xe ô tô đã thu giữ là phương tiện dùng vào việc phạm tội, là vật chứng của vụ án nên phải tịch thu toàn bộ giá trị xe sung vào ngân sách nhà nước.
Theo Viện cấp cao 2, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự quy định việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với "Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội"; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. "Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy".