Nội dung vụ án: Cụ Lê Văn C (chết ngày 27/10/2014) và cụ Lê Thị Ng (chết ngày 10/01/1991), các cụ sinh được 8 người con, gồm: Bà Lê Thị C, bà Lê Thị C1, bà Lê Thị B, bà Lê Thị K, bà Lê Thị C2, bà Lê Thị N, ông Lê Văn T và ông Lê Văn Th. Khi các cụ còn sống đã tạo lập được khối tài sản chung là thửa đất có diện tích 2.100m2 tại thôn Trung Thượng, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa, chủ sử dụng đất là ông Lê Văn C.

Ngày 30/9/2004, UBND huyện Hoằng Hóa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với thửa đất nêu trên với diện tích 1.892m2 cho ông Lê Văn Th và vợ là bà Lê Thị là con trai và con dâu của cụ C và cụ Ng.

leftcenterrightdel
 Kiểm sát viên Phòng 9, VKSND tỉnh Thanh Hóa nghiên cứu hồ sơ vụ án (Ảnh minh hoạ)

Các đồng nguyên đơn khởi kiện đề nghị TAND tỉnh Thanh Hoá  hủy GCNQSDĐ do UBND huyện Hoằng Hóa cấp ngày 30/9/2004, mang tên ông Lê Văn Th và bà Lê Thị S và chia thừa kế quyền sử dụng đất tại thửa đất nói trên. Ngày 23/02/2023, TAND tỉnh Thanh Hóa đã đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, tuyên hủy GCNQSDĐ đối với thửa đất diện tích 1.892m2 của ông Lê Văn Th và vợ là bà Lê Thị S, chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của các đồng thừa kế với di sản thừa kế của cụ Lê Văn C để lại. 

Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng sau: Bản án sơ thẩm nhận định việc cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng ông Th, bà S là không đúng quy định của pháp luật là không thỏa đáng, bởi vì: Công văn số 2098/UBND-TNMT ngày 9/9/2022 và Công văn số 1392/TNMT ngày 19/10/2022, UBND huyện Hoằng Hóa đã khẳng định: Căn cứ hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND xã Hoằng Hải chuyển lên; đối chiếu các quy định của pháp luật đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan; xét thấy hồ sơ đảm bảo theo quy định của pháp luật đất đai năm 2003, UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn Th và bà Lê Thị S, số vào sổ: H00089, cấp ngày 30/9/2004, diện tích 1.892m2.

Việc hiện nay UBND xã Hoằng Hải, UBND huyện Hoằng Hóa không có hồ sơ lưu việc cấp GCNQSDĐ không đồng nghĩa với việc lúc ban đầu (năm 2004) không có hồ sơ. Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Vân (nguyên cán bộ địa chính UBND xã) khẳng định có các giấy tờ liên quan đến ông Lê Văn Th; khi bố con ông xuống xã thì đã hướng dẫn làm hồ sơ.

Tòa án chưa thu thập, làm rõ tính hợp pháp của chứng cứ quan trọng: Ông Lê Văn Th có giao nộp 2 văn bản là “Giấy ủy quyền” viết ngày 10/10/2011 và “Biên bản họp gia đình” ngày 10/01/2012. Trong hồ sơ vụ án, chỉ có bản sao 2 tài liệu này, sau khi phiên tòa kết thúc, ông Lê Văn Th mới giao bản gốc cho Thư ký. Hai tài liệu này thể hiện ý chí của cụ Lê Văn C vào năm 2011 và năm 2012 là tặng, cho hai con trai thửa đất của hai cụ. Là sự khẳng định ý chí các cụ từ năm 2004 cho ông Lê Văn Th và ông Lê Văn T thửa đất với sự chứng kiến của các con gái là Lê Thị C, Lê Thị N, Lê Thị C1; của ông trưởng tộc Lê Văn C2; của ông Trưởng thôn Lê Văn Th1.

Ông Lê Văn Th, Lê Văn T, Lê Văn C, bà Lê Thị S đều thừa nhận có ký vào các văn bản trên. Bà Lê Thị C không thừa nhận mà đến phiên tòa sơ thẩm mới biết có 2 văn bản này. Các bà Lê Thị N, Lê Thị C1 chưa được hỏi về nội dung này do vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Với tài liệu quan trọng như đã nêu nhưng Tòa án không thu thập bản gốc để làm rõ có hay không có sự ngụy tạo văn bản này, thể hiện việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. Vì vậy, VKSND tỉnh Thanh Hoá kháng nghị đề nghị hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại.

Ngày 24/8/2023, TAND cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử phúc phẩm, chấp nhận các nội dung kháng nghị của VKSND tỉnh Thanh Hóa là có căn cứ. Đối với việc Tòa án không thu thập 2 văn bản là “Giấy ủy quyền” viết ngày 10/10/2011 và “Biên bản họp gia đình” ngày 10/01/2012, tuy nhiên, sau phiên tòa, ông Th đã nộp cho Tòa án, các văn bản này phù hợp với nội dung các tài liệu pho tô mà Tòa án đã đánh giá, xem xét. Vì vậy, TAND cấp cao tại Hà Nội không hủy bản án như Viện kiểm sát kháng nghị mà sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn.

Đinh Huê - Tuấn Nguyễn