Cụ thể, theo giấy đăng ký khai sinh, căn cước công dân chị Dương Thị Thụy (SN 1979), trú tại xã Nguyễn Trãi, tỉnh Hưng Yên có chị gái là Dương Thị Thúy (SN 1977). Học hết cấp 2, chị Thụy muốn đi làm, nên đã tự khai tên trong hồ sơ là Dương Thị Thùy (SN 1977) thành hai chị em sinh đôi để đi xin việc.
Sau đó, chị Thụy quen biết và muốn kết hôn với anh Nguyễn Văn Thanh (SN 1971), ở phường Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nên đã nói dối là mình sinh năm 1977. Ngày 3/11/1999, chị Thụy và anh Thanh đã đến UBND thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào (nay là phường Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên) đăng ký kết hôn. Tại đây, chị Thụy khai tên giả là Dương Thị Thuỳ, sinh ngày 16/9/1977 và được UBND thị trấn Bần Yên Nhân (cũ) tổ chức cho đăng ký kết hôn.
Như vậy, khi tổ chức đăng ký kết hôn cho chị Thụy và anh Thanh, UBND thị trấn Bần Yên Nhân (cũ) không kiểm tra kỹ lưỡng các giấy tờ tùy thân và hồ sơ đăng ký kết hôn của chị Thụy, nên vẫn tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn cho chị Dương Thị Thụy, sinh ngày 2/9/1979, nhưng ghi tên là Dương Thị Thuỳ, sinh ngày 16/9/1977 với anh Thanh.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chị Thụy và anh Thanh chung sống không hạnh phúc, sống ly thân nhau. Ngày 12/6/2025, chị Thụy nộp đơn đến TAND huyện Ân Thi (nay là TAND khu vực 1, tỉnh Hưng Yên) đề nghị hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Căn cứ vào các tài liệu thu thập được như: Biên bản ghi lời khai của các đương sự; Biên bản xác minh tại UBND phường; Căn cước công dân và giấy khai sinh của chị Thụy đều thể hiện Dương Thị Thuỳ, sinh ngày 16/9/1977 ghi trong giấy chứng nhận kết hôn số 30 quyển số 01/1999 do UBND thị trấn Bần Yên Nhân (cũ) cấp có họ tên theo căn cước công dân và giấy khai sinh là Dương Thị Thụy sinh ngày 9/12/1979.
Ngày 30/6/2025, TAND huyện Ân Thi đã mở phiên họp giải quyết việc dân sự, chấp nhận đơn của chị Thụy và ra quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị Thụy với anh Thanh.
Việc UBND thị trấn Bần Yên Nhân (cũ) khi tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn cho chị Thụy với anh Thanh đã không yêu cầu chị Thụy xuất trình bản chính giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình của bên nam hoặc bên nữ nơi đăng ký kết hôn.
Trong trường hợp không có đủ các giấy tờ trên, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế…do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng để chứng minh về nhân thân, nơi cư trú, để kiểm tra, đối chiếu họ tên, ngày, tháng, năm sinh, dẫn đến việc làm thủ tục đăng ký kết hôn và cấp Giấy đăng ký kết hôn cho chị Thụy với anh Thanh không đúng tên, tuổi thật của chị Thụy. Việc làm trên đã vi phạm khoản 1 Điều 15, 23, 24 Nghị định số 83 ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch.
    |
 |
Kiểm sát viên VKSND tỉnh Hưng Yên tại 1 phiên tòa dân sự. |
Nguyên nhân của vi phạm nêu trên là do: Nhận thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ làm công tác hộ tịch của UBND thị trấn Bần Yên Nhân thời kỳ năm 1999 có mặt còn hạn chế; chưa làm hết trách nhiệm của mình về xác minh, kiểm tra đầy đủ các giấy tờ, tài liệu liên quan để đề xuất, quyết định việc đăng ký kết hôn theo đúng quy định.
Mặt khác, việc lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra của lãnh đạo UBND thị trấn Bần Yên Nhân năm 1999 đối với công tác đăng ký kết hôn có việc còn chưa sâu sát, kịp thời để phát hiện vi phạm.
Để bảo đảm phòng ngừa vi phạm pháp luật trong việc thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn, VKSND khu vực 1 kiến nghị Chủ tịch UBND phường Mỹ Hào thực hiện một số nội dung sau đây, để phòng ngừa vi phạm pháp luật tương tự trong thời gian tới:
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra đối với bộ phận chuyên môn trong công tác đăng ký kết hôn,
Có giải pháp chấn chỉnh, chấm dứt vi phạm nêu trên, đảm bảo công tác đăng ký kết hôn được thực hiện theo đúng quy định pháp luật.