Theo quyết định của Chánh án TAND tối cao, các tập thể, cá nhân được tặng Bằng khen đến từ các đơn vị gồm: Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, TAND tối cao; Văn phòng Chính phủ; Ban Nội chính Trung ương; Bộ Tài chính; Hội Luật gia Việt Nam; Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; Văn phòng Quốc hội; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; một số Thẩm phán TAND tối cao…

Trong số các tập thể, cá nhân được Chánh án TAND tối cao tặng Bằng khen, VKSND tối cao có Phòng Pháp luật dân sự - hành chính thuộc Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14); ông Hoàng Văn Thắng, Kiểm sát viên thuộc Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14), VKSND tối cao.

Cùng với quyết định, TAND tối cao cũng đã có Thư cảm ơn về sự quan tâm, giúp đỡ, sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các tập thể, cá nhân trong quá trình xây dựng dự án Luật này.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh một phiên hòa giải, đối thoại. (Ảnh minh họa)

Trước đó, ngày 16/6/2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Luật gồm 4 Chương, 42 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021.

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại Tòa án, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án đối với hoạt động hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại, công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.

Về nguyên tắc, việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án được thực hiện theo các nguyên tắc đó là: Các bên tự nguyện tham gia hòa giải, đối thoại; tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận, thống nhất của các bên; không được ép buộc các bên thỏa thuận, thống nhất trái với ý chí của họ; bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia hòa giải, đối thoại.

Cùng với đó, nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại phải được giữ bí mật theo quy định của Luật này; phương thức hòa giải, đối thoại được tiến hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi loại vụ việc.

Mặt khác, Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại độc lập và tuân theo pháp luật. Tiếng nói và chữ viết dùng trong hòa giải, đối thoại là tiếng Việt. Người tham gia hòa giải, đối thoại có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình; trường hợp này họ có thể tự bố trí hoặc đề nghị Hòa giải viên bố trí phiên dịch cho mình.

Người tham gia hòa giải, đối thoại là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn có quyền dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp này phải có người biết ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật để dịch lại và họ cũng được coi là người phiên dịch.

Ngoài ra, việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án còn phải bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trong hòa giải, đối thoại.

P.V