leftcenterrightdel
Thông báo rút kinh nghiệm của Viện Cấp cao 3 

Viện kiểm sát cho rằng tòa chỉ căn cứ vào thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để tuyên hợp đồng vô hiệu mà không quan tâm đến giao dịch thực tế đã phát sinh trước đó là không đúng pháp luật.

Vụ án sau đó bị Viện trưởng Viện Cấp cao 3 kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm và TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh chấp nhận toàn bộ kháng nghị.

Nội dung vụ án, vợ chồng ông N.C.H - bà T.T.T có nghĩa vụ liên đới trả cho vợ chồng ông N.T.X - bà P.T.T số tiền 739.574.400đ, chia làm 4 đợt theo quyết định công nhận thoả thuận của các đương sự trước đó của TAND huyện Bù Gia Mập (quyết đinh sơ thẩm). Ngày 20/11/2014 ông N.C.H - bà T.T.T chỉ trả được 1 đợt rồi ngưng. Đến 24/8/2015, họ ký hợp đồng công chứng, chuyển nhượng cho bà N.T.T.N quyền sử dụng đất (QSDĐ) đất đối với 5.972,4m2 đất tại huyện Phú Riềng.

Sau khi chuyển nhượng ông N.C.H - bà T.T.T không dùng số tiền có được để trả nợ theo quyết định sơ thẩm. Theo bà P.T.T thì họ cố tình trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, ngoài ra việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng 5.972,4m2 được thực hiện sau khi có công văn ngăn chặn của thi hành án đã vi phạm điều kiện chuyển nhượng được quy định tại Điều 188 Luật Đất đai 2013 nên vợ chồng ông N.T.X và bà P.T.T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng nói trên vô hiệu.

TAND huyện Phú Riềng xét xử sơ thẩm ngày 31/7/2018 tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; TAND tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho TAND huyện Phú Riềng giải quyết lại theo thủ tục chung.

Tại phiên sơ thẩm lần 2, TAND huyện Phú Riềng tiếp tục không chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Nguyên đơn kháng cáo và ngày 9/5/2020, TAND tỉnh Bình Phước ra bản án phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tuyên hợp đồng đã ký vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; đồng thời kiến nghị UBND huyện Phú Riềng thu hồi Giấy CNQSDĐ đã cấp cho bà N.T.T.N.

Bà N.T.T.N có đơn đề nghị Giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm gửi Viện Cấp cao 3. Tại quyết định Giám đốc thẩm số 136/DS-GĐT ngày 10/5/2021, TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện Cấp cao 3 theo hướng hủy bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Thông báo rút kinh nghiệm của Viện Cấp cao 3 cho rằng, chứng cứ cho thấy từ năm 2012 ông N.C.H - bà T.T.T đã chuyển nhượng cho bà N.T.T.N phần đất 5.972,4m2  với giá 400.000.000đ. Hai bên giao nhận tiền và giấy CNQSDĐ, cũng như bàn giao đất trên thực tế; bên nhận chuyển nhượng đã xây dựng một số công trình trên đất mua được trước khi ông N.T.X - bà P.T.T khởi kiện gần 2 năm.

Tại thời điểm chuyển nhượng, đất không bị kê biên ngăn chặn mà chỉ bị vướng mắc bởi khâu đo đạt nên các bên chưa tiến hành được thủ tục công chứng hợp đồng và chỉ lập “Giấy bán vườn cao su” đề ngày 14/3/2014. Tiếp đó ngày 20/9/2012 ông N.C.H - bà T.T.T có viết thêm vào mặt sau “Giấy bán vườn cao su” các nội dung xác nhận đã chuyển nhượng đất, cam kết không tranh chấp về sau và khi hoàn thành đo đạt chính quy sẽ thực hiện các thủ tục chuyển nhượng theo quy định.

Thực tế ông N.C.H - bà T.T.T đã liên lạc cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục cần thiết nên đến ngày 10/7/2015 họ được cấp giấy CNQSDĐ mới, và đến 24/8/2015 thì ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà N.T.T.N để hoàn tất về mặt pháp lý cho giao dịch trước đó.

Theo Viện Cấp cao 3, có căn cứ xác định rằng giao dịch chuyển nhượng QSDĐ giữa các bên phát sinh trước khi có tranh chấp tại tòa án, việc lập hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/8/2015 chỉ nhằm hoàn tất về mặt pháp lý chứ không để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Bản án sơ thẩm công nhận giao dịch giữa các bên được nêu và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu là khách quan, đúng với bản chất vụ án, có căn cứ và đúng pháp luật.

Vì vậy việc bản án phúc thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội là “không có căn cứ, không đúng pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà N.T.T.N”. VKSND các tỉnh, thành phố cần nghiên cứu rút kinh nghiệm về vấn đề này trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự  hôn nhân và gia đình, thông báo của Viện Cấp cao 3 nêu rõ./.            

Việt An