Về vấn đề này, Luật sư Phạm Ngọc Oanh - Công ty Luật TNHH Hùng Thắng, Đoàn Luật sư TP Hà Nội có ý kiến như sau:

 
leftcenterrightdel
 Luật sư Phạm Ngọc Oanh. 
 

1. Quy định về việc cho tinh trùng

Căn cứ Điều 4 Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (“Nghị định 10/2015/NĐ-CP”) thì pháp luật quy định về việc cho tinh trùng cụ thể như sau:

-        Người cho tinh trùng được khám và làm các xét nghiệm để xác định: Không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau; không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình; không bị nhiễm HIV.

-        Tự nguyện cho tinh trùng và chỉ cho tại một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.

-        Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người cho tinh trùng.

-        Tinh trùng của người cho chỉ được sử dụng cho một người, nếu không sinh con thành công mới sử dụng cho người khác. Trường hợp sinh con thành công thì tinh trùng chưa sử dụng hết phải được hủy hoặc hiến tặng cho cơ sở làm nghiên cứu khoa học.

2. Quy định về việc nhận tinh trùng

Bên cạnh quy định về việc cho tinh trùng thì người nhận tinh trùng cũng phải đáp ứng đúng, đủ các điều kiện theo quy định pháp luật. Cụ thể:

Căn cứ Điều 5 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về việc nhận tinh trùng như sau:

-        Người nhận tinh trùng phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng hoặc là phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai.

Trong đó, “Vô sinh” là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai (Theo Khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP).

-        Người nhận tinh trùng phải có đủ sức khỏe để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con; không đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, B; không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.

-        Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận tinh trùng.

Như vậy, người nhận tinh trùng cũng cần phải đáp ứng đúng, đủ các điều kiện theo quy định pháp luật nêu trên. Đồng thời, để không vi phạm pháp luật trong trường hợp cho và nhận tinh trùng thì mọi người cần đến các cơ sở khám, chữa bệnh đã được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm để thực hiện việc cho và nhận tinh trùng theo quy định pháp luật nhằm đảm bảo tính nhân văn của hành động và tránh được những trường hợp lợi dụng hình thức này để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

 

 

 

 

Hương My (T/h)