Về vấn đề này, Luật sư Trần Đức Thắng – Giám đốc Công ty Luật TNHH Hùng Thắng, Đoàn Luật sư TP Hà Nội có ý kiến như sau;
1. Quyền nuôi con dưới 18 tuổi
Căn cứ theo khoản 1 Điều 71 và khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Điều 71. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
1. Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”
[...]
Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
…”
Như vậy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con cái là quyền, nghĩa vụ của cả cha và mẹ ngay cả khi cha mẹ đã ly hôn với nhau thì cha, mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định.
2. Khi nào cha, mẹ bị hạn chế quyền nuôi con?
Tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định 4 hành vi cha, mẹ có thể bị hạn chế quyền nuôi con dưới 18 tuổi cụ thể:
“Điều 85. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.”
Như vậy, tùy theo vào từng trường hợp cụ thể nêu trên mà Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức liên quan ra quyết định hạn chế quyền nuôi con của cha, mẹ nhằm đảm bảo quyền lợi của con được bảo vệ một cách tốt nhất trong trường hợp cha mẹ vi phạm các quy định của pháp luật.
3. Ai có quyền đề nghị Tòa án hạn chế quyền nuôi con của bố, mẹ?
Căn cứ tại Điều 86 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Điều 86. Người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
[...]”
Như vậy, Cha, mẹ, người giám hộ, cá nhân là người thân thích, cơ quan, tổ chức nhà nước có thẩm quyền nêu trên đều có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định.