Điều 25 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Trên không gian mạng, quyền tự do ngôn luận của công dân cũng được pháp luật bảo hộ - sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng phải tuân thủ quy định chung của Luật An ninh mạng,  Luật An toàn thông tin mạng năm 2018,…. Tại Điều 8 Luật An ninh mạng quy định những hành vi bị nghiêm cấm như: Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi;…

leftcenterrightdel
Quyền “tự do ngôn luận” trên không gian mạng: Tuân thủ thế nào để không vi phạm? 

Như vậy, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân phải trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam... Những cá nhân nào ngộ nhận hoặc lợi dụng về quyền tự do ngôn luận, thông qua nền tảng mạng xã hội để phát ngôn bừa bãi, không có căn cứ, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, gây nhiễu loạn thông tin, làm bất ổn tình hình an ninh trật tự xã hội…, đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Cụ thể, người thực hiện hành vi có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại  khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyên điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, quy định như sau: “Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau: Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc;…

Nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Bộ luật Hình sự, người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội làm nhục người khác, quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự hoặc Tội vu khống, quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự. Thậm chí, nếu thực hiện phát trực tiếp những nội dung thông tin không được kiểm chứng, sử dụng những ngôn từ mang tính chất nhục mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác, coi thường pháp luật, có thể bị truy cứu tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân", quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Luật sư: Nguyễn Văn Lâm( Đoàn Luật sư Hà Nội)