Với câu hỏi của bạn, Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty TNHH Luật Hiếu Hùng có ý kiến tư vấn như sau:

leftcenterrightdel
Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty TNHH Luật Hiếu Hùng. 

Đại dịch COVID -19 kéo dài trong thời gian vừa qua đã khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cũng xin được gửi lời chia sẻ đến bạn về những khó khăn này.

Đối với mong muốn cắt giảm bớt lao động của bạn, luật sư khuyến nghị rằng: Doanh nghiệp của bạn nên thông báo với người lao động về những khó khăn mà công ty đang gặp phải để người lao động được biết với hi vọng người lao động sẽ chung tay chia sẻ khó khăn cùng công ty. Người lao động nào có khả năng tự đảm bảo công việc sẽ chủ động viết đơn xin thôi việc, nhường lại việc làm cho những lao động khác, tạo điều kiện thuận lợi để công ty vượt qua thời kỳ khó khăn do dịch bệnh COVID-19. Đồng thời, đối với những người lao động này, công ty cũng cần có chính sách phù hợp để hỗ trợ cho người lao động tự nguyện thôi việc, đảm bảo lợi ích hài hòa của cả hai bên.

Trường hợp người lao động không tự nguyện xin thôi việc hoặc số người xin thôi việc ít hơn số người mà công ty cần cắt giảm thì công ty có thể thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động theo điểm c khoản 1 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019. Cụ thể, điều khoản quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động: “Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc”.

Tuy nhiên, khi chấm dứt hợp đồng lao động theo trường hợp này, công ty cần lưu ý một số nội dung sau:

Thứ nhất, phải tuân thủ thời hạn báo trước, cụ thể:

- Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

- Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;

- Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng.

Trường hợp không tuân thủ thời hạn báo trước, người lao động phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.

Thứ hai, phải có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương (trừ trường hợp đủ điều kiện hưởng lương hưu và trường hợp người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên).

Thứ ba, thực hiện đầy đủ trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động

Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày:

- Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;

- Người sử dụng lao động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;

- Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;

- Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm.

Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp thôi việc và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động được ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản.

Người sử dụng lao động có trách nhiệm sau đây:

- Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động;

- Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động trả.

 

 

 

Minh Giang