Theo nội dung vụ án, trong thời kỳ hôn nhân, ông K. và bà M. có 3 con chung gồm: Trần Nguyễn X.A (SN 2007), Trần Viết A.B  (SN 2012) và Trần Viết A.C (SN 2015)

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, ông K. đồng ý giao cho bà M. trực tiếp nuôi dưỡng 3 con chung và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 10.000.000 đồng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

leftcenterrightdel
 Phiên tòa xét xử vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”.

Sau phiên tòa sơ thẩm, xét thấy, các con chung của ông K. và bà M. có năm sinh lần lượt là 2007, 2012, 2015 nên việc 3 con chung đủ 18 tuổi sẽ ở các thời điểm khác nhau nhưng bản án sơ thẩm lại tuyên: “Ông K. tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 10.000.000 đồng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi”, là chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó khăn trong việc thi hành án. Đồng thời, bà M. cho rằng, tại phiên tòa sơ thẩm, bà đã trình bày và đề nghị xem xét việc cấp dưỡng đối với con chung Trần Nguyễn K.A vì cháu bị khuyết tật bẩm sinh nhưng không được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, ảnh hưởng đến quyền lợi của cháu A. Do đó, bà M. đã có đơn kháng cáo và cung cấp các tài liệu, chứng cứ kèm theo gồm: Giấy xác nhận khuyết tật do UBND phường H.M (TP Đà Nẵng) cấp ngày 25/10/2014 đối với cháu Trần Nguyễn X.A bị khuyết tật nghe (nặng); Bệnh án của cháu Trần Nguyễn X.A bị khuyết tật nghe bẩm sinh.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà M. trình bày, cháu A. không nghe được, nói khó khăn, các hoạt động của cháu A. khó khăn so với những trẻ bình thường. Ông K. thống nhất với nội dung trình bày của bà M.  Đồng thời, ông K. và bà M. thỏa thuận được mức cấp dưỡng cụ thể cho từng con chung.

Kiểm sát viên đã kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật của HĐXX, của đương sự và những người tham gia phiên tòa. Trên cơ sở nghiên cứu, chuẩn bị nội dung vụ án kỹ càng, Kiểm sát viên đã phân tích, trích dẫn điều luật đưa ra các chứng cứ, đặt ra những câu hỏi có trọng tâm, rõ ràng đối với các bên đương sự để làm sáng rõ nội dung vụ án.

Qua nghiên cứu hồ sơ, nội dung vụ án và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, đại diện VKS nhận định, bản án sơ thẩm tuyên ông K. cấp dưỡng cho cháu X.A cho đến khi cháu đủ 18 tuổi (như đối với con chung phát triển bình thường) là chưa đảm bảo quyền lợi cho cháu X.A. Vì vậy, nội dung kháng cáo của bà M. cho rằng quyết định của bản án sơ thẩm ảnh hưởng đến quyền lợi của con chung là có cơ sở chấp nhận.

Đại diện VKS đã đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm, theo hướng ông Trần V.K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Trần Viết A.B và Trần Viết A.C cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, mức cấp dưỡng 3.000.000 đồng/1 con/1 tháng. Cấp dưỡng nuôi con chung Trần Nguyễn X.A 4.000.000 đồng/1 tháng cho đến khi con chung Trần Nguyễn X.A có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

Quan điểm trên của đại diện Viện kiểm sát đã được HĐXX TAND TP Đà Nẵng chấp nhận.

 


Lương Thị Chung - VKSND TP Đà Nẵng