Nội dung vụ án thể hiện, ngày 22/9/2005, UBND TP Buôn Ma Thuột cấp cho hộ bà Vũ Thị Ngân Oanh GCNQSDĐ số AC976477 đối với thửa đất số 46B (nay là thửa 70), tờ bản đồ số 25, diện tích 184m2, tọa lạc tại phường Ea Tam, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, bà Oanh lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất nói trên cho ông Nguyễn Viết Bình và bà Đỗ Thị Hoàn.

Ngày 26/4/2008, Văn phòng đăng ký đất đai TP Buôn Ma Thuột thay đổi điều chỉnh chủ sử dụng thửa đất cho ông Bình và bà Hoàn.

Căn cứ vào Công văn số 817/CV-PC15 ngày 8/5/2009 của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Đắk Lắk, UBND TP Buôn Ma Thuột đã ban hành Quyết định số 2073/QĐ-UBND ngày 23/7/2009 về việc thu hồi và hủy giá trị pháp lý GCNQSDĐ số AC976477, thửa đất số 46B, tờ bản đồ số 25, diện tích 184m2, do UBND TP Buôn Ma Thuột cấp ngày 22/9/2005 cho bà Oanh. Việc thu hồi nói trên bà Hoàn hoàn toàn không biết dù GCNQSDĐ đã được điều chỉnh thay đổi chủ sử dụng cho ông Bình, bà Hoàn vào năm 2008.

Ngày 17/5/2017, Văn phòng đăng ký đất đai TP Buôn Ma Thuột mời gia đình bà Hoàn lên làm việc để giao nộp lại GCNQSDĐ số AC976477 và hướng dẫn bà Hoàn làm thủ tục cấp lại GCNQSDĐ mới theo quy định của pháp luật.

Sau khi bà Hoàn nộp hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ thì ngày 4/7/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai TP Buôn Ma Thuột ban hành Thông báo số 227/TB-CNBMT về việc giải quyết hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ, theo đó, thửa đất số 46B (nay là thửa 70), tờ bản đồ số 25 của gia đình bà Hoàn không đủ điều kiện để cấp GCNQSDĐ do không phù hợp với quy hoạch hiện tại vì thuộc quy hoạch đất cây xanh cảnh quan.

Không đồng ý với thông báo trên, ông Bình gửi đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông đối với thửa đất trên đến UBND TP Buôn Ma Thuột. Ngày 22/3/2019, UBND thành phố ban hành công văn số 1129/UBND-TNMT trả lời đơn của ông Bình, nội dung: Việc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai TP Buôn Ma Thuột ban hành Thông báo số 227/TB CNBMT ngày 4/7/2017 là đúng quy định của pháp luật.

Không đồng ý với việc giải quyết như trên, bà Hoàn khởi kiện đến TAND tỉnh Đắk Lắk yêu cầu tuyên bố hành vi không cấp GCNQSDĐ của UBND TP Buôn Ma Thuột là trái với quy định của pháp luật, yêu cầu UBND thành phố cấp cho gia đình bà GCNQSDĐ đối với thửa đất số 70, tờ bản đồ số 25, diện tích 184m2. Ngoài ra, bà còn yêu cầu UBND TP Buôn Ma Thuột bồi thường số tiền 10.000.000đ chi phí đi lại, tiền công lao động bị mất do phải đi lại làm thủ tục cấp GCNQSDĐ.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh một phiên toà hành chính. (Ảnh minh hoạ)

Quá trình giải quyết vụ án thể hiện: Tại phần quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 32/2019/HC-ST ngày 25/10/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk đã tuyên bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hoàn.

Ngày 8/11/2019, bà Hoàn kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 32/2019/HC-ST ngày 25/10/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 14/7/2020, bà Hoàn rút kháng cáo đối với phần yêu cầu UBND TP Buôn Ma Thuột bồi thường số tiền 10.000.000đ chi phí đi lại, tiền công lao động bị mất do phải đi lại làm thủ tục cấp GCNQSDĐ.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 128/2020/HC-PT ngày 14/7/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Hoàn, sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 32/2019/HC-ST ngày 25/10/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hoàn về việc: Tuyên bố hành vi không cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 46B (nay là thửa 70) của UBND TP Buôn Ma Thuột đối với gia đình bà Hoàn là trái với quy định của pháp luật.

Yêu cầu UBND TP Buôn Ma Thuột cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất trên cho gia đình bà Hoàn.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hoàn về việc buộc UBND TP Buôn Ma Thuột phải bồi thường cho bà Hoàn số tiền 10.000.000 đồng.

Theo VKSND cấp cao tại Đà Nẵng, trong vụ án hành chính trên, vấn đề cần rút kinh nghiệm đó là: Nguồn gốc thửa đất số 46B (nay là thửa 70) là do Hợp tác xã buôn AlêB cấp cho ông Y Buê Niê để ở và làm kinh tế vườn. Đến năm 2004, ông Y Buê sang nhượng một phần thửa đất diện tích 190m2 cho bà Oanh, thủ tục mua bán chỉ có giấy viết tay, không có xác nhận của chính quyền địa phương. 

Để làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ mà không nộp tiền sử dụng đất, bà Oanh đã liên hệ một số đối tượng làm giả hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có xác nhận của chính quyền địa phương và ký lùi thời điểm nhận chuyển nhượng là năm 1997. Qua đó, bà Oanh đã trốn tránh được việc nộp tiền sử dụng đất với số tiền là 14.572.800 đồng. Ngày 23/7/2009, UBND TP Buôn Ma Thuột ban hành Quyết định số 2073/QĐ-UBND về việc thu hồi và hủy giá trị pháp lý GCNQSDĐ số AC 976477 đã cấp ngày 22/9/2005 cho bà Oanh.

Tuy nhiên, sau khi được cấp GCNQSDĐ năm 2008, bà Oanh đã chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất cho ông Bình, bà Hoàn. Ngày 26/4/2008, Văn phòng đăng ký đất đai TP Buôn Ma Thuột thay đổi, điều chỉnh chủ sử dụng thửa đất cho ông Bình và bà Hoàn.

Ngày 15/3/2017, gia đình bà Hoàn làm thủ tục đăng ký thế chấp đối với GCNQSDĐ nói trên thì biết rằng GCNQSDĐ đã bị UBND TP Buôn Ma Thuột ra quyết định thu hồi. Ngày 17/5/2017, Văn phòng đăng ký đất đai thành phố mời gia đình bà Hoàn lên làm việc để giao nộp lại GCNQSDĐ số AC976477 và hướng dẫn bà Hoàn làm thủ tục cấp lại GCNQSDĐ mới theo quy định của pháp luật.

Sau khi bà Hoàn nộp hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ thì ngày 4/7/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố ban hành thông báo cho rằng thửa đất này của gia đình bà Hoàn thuộc quy hoạch đất cây xanh cảnh quan theo quy hoạch khu trung tâm phường Ea Tam, TP Buôn Ma Thuột được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 6/1/2011. Từ đó trả lời thửa đất nói trên không đủ điều kiện để cấp GCNQSDĐ do không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất.

Việc trả lời như trên của UBND TP Buôn Ma Thuột là không đúng vì trong quá trình giải quyết vụ án, UBND thành phố không cung cấp được Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 6/1/2011 của UBND tỉnh về phê duyệt quy hoạch sử dụng đất dù TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành công văn số 1964/CV-TA ngày 29/6/2020 yêu cầu UBND TP Buôn Ma Thuột cung cấp quyết định nói trên. Đồng thời, các hộ dân tại khu vực phường Ea Tam hiện nay không có hộ nào bị thu hồi GCNQSDĐ hay giải tỏa, đền bù cho các hộ dân để thực hiện quy hoạch trồng cây xanh.

Việc trong hồ sơ vụ án không có Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 6/1/2011 của UBND tỉnh Đắk Lắk nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn căn cứ vào đó để lập luận, đưa ra quyết định bác yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Hoàn là không có cơ sở.

Ngoài ra, thửa đất số 46B (nay là thửa 70), tờ bản đồ số 25 được vợ chồng ông Bình, bà Hoàn nhận chuyển nhượng từ bà Oanh ngay tình, theo giá thị trường và đã được chỉnh lý biến động sang tên bà Hoàn. Do đó, UBND TP Buôn Ma Thuột không thể thu hồi GCNQSDĐ đối với thửa đất nói trên mà cần có biện pháp hành chính khác để buộc bà Oanh phải nộp bổ sung 50% số tiền sử dụng đất là 14.572.800 đồng đã gian dối để trốn tránh nghĩa vụ. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Hoàn là không phù hợp.

P.V