Nội dung vụ án thể hiện: Trong khoảng thời gian từ ngày 18/1/2020 đến ngày 14/8/2020, tại huyện T, tỉnh B, Lê Hữu T đã đánh bạc trái phép được thua bằng tiền với Nguyễn Minh H dưới hình thức lô đề và cá độ bóng đá, trong đó có 217 lần dưới hình thức lô đề với tổng số tiền 1.050.294.000 đồng (79 lần có số tiền đánh bạc trên 5 triệu đồng/ 1 lần = 717.001.500 đồng) và 160 lần dưới hình thức cá độ bóng đá với tổng số tiền 1.078.820.000 đồng (89 lần có số tiền đánh bạc trên 5 triệu đồng/1 lần = 917.001.500 đồng).

Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 18/7/2023 của TAND huyện T, tỉnh B áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T 15 tháng tù về tội "Đánh bạc".

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác trong cùng vụ án, quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong hạn luật định, bị cáo T kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên toà xét xử một vụ án đánh bạc. (Ảnh minh hoạ)

Bản án hình sự phúc thẩm số 174/2023/HS-PT ngày 27/9/2023 của TAND tỉnh B chấp nhận kháng cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo T; áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn quyết định về án phí phúc thẩm.

Ngày 11/4/2024, Viện trưởng Viện cấp cao 2 ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 36/QĐ-VC2 đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 174/2023/HS-PT ngày 27/9/2023 của TAND tỉnh B, đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy bản án phúc thẩm nêu trên về phần hình phạt đối với bị cáo T và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Quyết định giám đốc thẩm số 10/2024/HS-GĐT ngày 13/6/2024 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện cấp cao 2.

Trong vụ án trên, theo Viện cấp cao 2 có một số vấn đề cần rút kinh nghiệm. Cụ thể, bị cáo T phạm tội nhiều lần nay mới bị phát hiện xử lý. Khi xét xử, TAND tỉnh B áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Phạm tội 2 lần trở lên" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, nhưng đồng thời lại áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là không đúng quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, bị cáo T có 1 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và 1 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nhưng lại có 1 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự nên theo quy định tại Nghị quyết số 02/VBHN-TANDTC ngày 7/9/2022 của TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo thì bị cáo T không đủ điều kiện để được hưởng án treo.

Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 18/7/2023 của TAND huyện T, tỉnh B đối với bị cáo T là đúng pháp luật. Bản án hình sự phúc thẩm số 174/2023/HS-PT ngày 27/9/2023 của TAND tỉnh B chấp nhận kháng cáo, cho bị cáo được hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

P.V