Nội dung vụ án

Nguyên đơn trình bày: Năm 2001, Ban Quản lý dự án trồng rừng huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam (Dự án 661) giao cho hộ ông Trần Văn Dũng (con trai bà Nguyễn Thị Liễu) diện tích đất 1,5 ha tại Tiểu khu 512, khoảnh 8, tờ bản đồ số 1 thuộc thôn 3 (nay là thôn Nhị Phú), xã Thăng Phước, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam để trồng cây keo. Năm 2011, ông Dũng bán số keo trên diện tích đất được giao cho ông Nguyễn Văn Sáu với giá 15.000.000 đồng. 

Tại thời điểm đó, ông Sáu có thầu xây dựng nhà cho gia đình ông Dũng, nhưng gia đình ông Dũng đã thanh toán đủ tiền công, không còn nợ tiền ông Sáu. Mục đích bán keo là để dọn đất trồng lại rừng, không phải để trừ vào tiền công làm nhà của ông Sáu. Đến năm 2012, ông Dũng bị bệnh qua đời. Lúc đó, do điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có ai tiếp tục canh tác diện tích đất nêu trên nên nhân cơ hội này, ông Sáu sau khi khai thác số keo mua của ông Dũng, đã tiến hành trồng lại keo trên diện tích đất này. 

Đến năm 2013, bà Trần Thị Tiên (chị ông Dũng) đưa cán bộ địa chính xã Thăng Phước, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam đến đo đạc lại diện tích đất được Dự án 661 giao cho hộ ông Dũng để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình, thì được biết số keo khoảng 3 tháng tuổi trên đất là do ông Sáu trồng. Bà Tiên nhiều lần yêu cầu ông Sáu trả lại đất nhưng ông Sáu không đồng ý với lý do ông Dũng đã chuyển nhượng diện tích trên cho ông. Bà Tiên làm đơn khiếu nại, UBND xã Thăng Phước tổ chức hòa giải nhưng không thành.

Sau đó, bà Liễu (mẹ bà Tiên và ông Dũng) khởi kiện đến TAND huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam, yêu cầu Tòa án buộc ông Sáu phải trả lại diện tích đất là 1,5 ha tại Tiểu khu 512, khoảnh 8, tờ bản đồ số 1 thuộc thôn Nhị Phú, xã Thăng Phước, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam cho gia đình bà Liễu. 

Sau khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, qua đo đạc, đã xác định diện tích đất tranh chấp thực tế là 10.722m2 và tài sản trên đất là 3.216m2 cây keo dâm hom mới trồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông Sáu phải phá bỏ các tài sản trên đất và trả lại diện tích đất 10.722m2.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên toà rút kinh nghiệm vụ án dân sự tranh chấp đất đai tại tỉnh Hà Giang.

Bị đơn trình bày: Năm 2010, ông Sáu làm nhà cho ông Dũng. Do không có số tiền 12.600.000 đồng để trả tiền công nên ông Dũng đã bán số cây keo trên diện tích đất như nêu ở trên cho ông Sáu với giá 3.500.000 đồng. Tiếp đó, ông Dũng chuyển nhượng luôn diện tích đất trồng keo cho ông Sáu với giá 30.000.000 đồng.

Tại thời điểm chuyển nhượng, hai bên chỉ trao đổi miệng, không lập thành văn bản. Hai bên thỏa thuận, ông Sáu trả trước 15.000.000 đồng được trừ vào tiền công làm nhà; 15.000.000 đồng còn lại, ông Sáu đã nhiều lần thanh toán cho bà Tiên và bà Liễu, nhưng do tin tưởng nên không yêu cầu viết giấy nhận tiền. Ông Sáu không đồng ý trả lại diện tích đất 10.722m2 cho bà Liễu.

Quá trình giải quyết vụ án

Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2017/DS-ST ngày 26/9/2017 của TAND huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Liễu về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với ông Sáu.

Công nhận diện tích đất tranh chấp 10.722m2 thuộc khoảnh 8, tiểu khu 512, tờ bản đồ số 01, thôn Nhị Phú, xã Thăng Phước, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình bà Liễu.

Buộc gia đình bà Liễu phải hoàn trả lại cho ông Sáu và bà Trần Thị Hoa số tiền 30.000.000 đồng.

Về tài sản trên đất: Giao toàn bộ số keo trên diện tích đất 10.722m2 cho gia đình bà Liễu được quyền sở hữu. Gia đình bà Liễu phải có nghĩa vụ hoàn trả giá trị keo trên đất cho ông Sáu và bà Trần Thị Hoa với số tiền 9.648.000 đồng. Tổng cộng số tiền gia đình bà Liễu phải trả cho ông Sáu, bà Hoa là 39.648.000 đồng.

Ngày 1/10/2019, Chánh án TAND tỉnh Quảng Nam có Công văn số 414/2019/CV-KN kiến nghị Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự trên.

Quyết định Giám đốc thẩm số 41/2020/DS-GĐT ngày 6/7/2020 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 16/2020/KN-DS ngày 29/5/2020 của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2017/DS-ST ngày 26/9/2017 của TAND huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Tại điểm b Điều 3 của Hợp đồng khoán trồng rừng và bảo vệ rừng giữa Ban Quản lý dự án trồng rừng Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam với hộ ông Trần Văn Dũng, quy định: “... Khi chủ hộ thấy mình không có khả năng quản lý, sử dụng diện tích đã được giao thì báo cáo cho Ban Quản lý Dự án để giải quyết và giao cho người khác quản lý và sử dụng”. Như vậy, việc ông Dũng tự ý chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất nhận khoán với Ban Quản lý dự án trồng rừng Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam cho ông Sáu là không đúng.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định có việc chuyển nhượng đất giữa ông Dũng và ông Sáu và nhận định giao dịch này là vô hiệu (do vi phạm điều cấm), nhưng khi quyết định thì tuyên công nhận diện tích đất thuộc về quyền quản lý sử dụng của gia đình bà Liễu; buộc gia đình bà Liễu phải hoàn trả lại 30.000.000 đồng tiền chuyển nhượng đất) và thối trả giá trị tài sản (cây keo) trên đất là 9.648.000 đồng cho vợ chồng ông Sáu, bà Hoa, trong khi chưa tuyên bố giao dịch trên là vô hiệu, cũng như chưa giải quyết triệt để hậu quả pháp lý về nghĩa vụ trả lại đất, việc bồi thường thiệt hại theo mức độ lỗi đối với giao dịch dân sự vô hiệu là thiếu sót (cần lưu ý, trong trường hợp này, việc giải quyết hậu quả pháp lý nêu trên không đơn thuần dựa vào việc có hay không có yêu cầu cụ thể của bị đơn, vì bị đơn không đồng ý trả lại đất cho nguyên đơn mà đề nghị theo hướng xác định giao dịch chuyển nhượng đất có hiệu lực, nên không thể nêu ra yêu cầu ngược lại).

Đối với diện tích đất tranh chấp, các bên không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chỉ có Hợp đồng khoán trồng rừng và bảo vệ rừng do Ban Quản lý dự án trồng rừng huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam khoán cho hộ ông Dũng. Hiện tại diện tích đất vẫn do UBND xã Thăng Phước, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam quản lý. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyển công nhận diện tích đất tranh chấp thuộc về quyền quản lý, sử dụng của gia đình bà Liễu là không chính xác.
Do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là UBND xã Thăng Phước, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam (chủ thể quản lý đất) không có yêu cầu độc lập đối với diện tích đất mà các bên tranh chấp, đồng thời chưa có văn bản pháp lý nào thể hiện đã chấm dứt Hợp đồng khoán trồng rừng và bảo vệ rừng đối với hộ ông Dũng nên trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm nhận định giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu như trên thì chỉ tuyên các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp về Hợp đồng khoán trồng rừng và bảo vệ rừng thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh tại các cơ quan chức năng có liên quan về việc không đồng nhất giữa các thông số vị trí thửa đất tranh chấp thể hiện theo các giấy tờ, tài liệu, hiện trạng sử dụng đất.

Bên cạnh đó, tại hồ sơ vụ án thể hiện việc khoán trồng rừng và bảo vệ rừng là cho hộ gia đình ông Dũng vào năm 2001, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ hộ gia đình ông Dũng gồm những ai để xem xét đưa họ vào tham gia tố tụng cho đầy đủ.

P.V