Ngày 8/3/2021, TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã mở phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án hình sự Nguyễn Thị V. phạm các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 BLHS. Trước đó, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã có kháng nghị đối với vụ án này. Phiên tòa được Viện 1, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng chọn làm phiên tòa rút kinh nghiệm. KSV thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa là ông Đoàn Minh Lộc – KSV cao cấp, Trưởng phòng 3, Viện 1.

leftcenterrightdel
 KSV cao cấp, Trưởng phòng 3, Viện 1 thuộc VKSND cấp cao tại Đà Nẵng - Đoàn Minh Lộc giữ quyền thực hành quyền công tố tại phiên xét xử. Ảnh: Lê Vũ Phong

Theo nội dung vụ án, giữa tháng 10/2017, Nguyễn Thị V. thuê một người có tên nickname Zalo là “Lâm Tùng” làm giả 1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Thị V. với giá 25 triệu đồng. Sau khi có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, V. đến nhà chị M. đặt vấn đề bán lô đất này cho chị M. với giá 3 tỉ đồng, chị M. đồng ý. Lúc này, V. đưa cho chị M. xem bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên, đồng thời V. nói dối với chị M. là giấy chứng nhận gốc của lô đất này do bà H. (là thím của V) đang giữ, vì V. thiếu nợ bà H. 600 triệu đồng. V. hẹn chị M. đến nhà bà H. giao tiền để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngày 21/10/2017, V. đưa chị M. đến nhà bà H. và V. đưa cho bà H. 1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà V. đã làm giả trước đó và 1 tờ giấy ghi nội dung V. mượn của bà H. 600 triệu đồng, nhờ bà H. giao lại cho chị M. và nhận 600 triệu đồng. Sau khi nhận 2 loại giấy tờ do bà H. đưa, chị M. đã giao cho bà H. số tiền 600 triệu đồng rồi ra về trước, còn V. ở lại lấy tiền từ bà H. sau đó đi về nhà chị M.

Tại đây, V. tiếp tục nhận của chị M. số tiền 600 triệu đồng và viết giấy nhận cọc sang nhượng đất với tổng số tiền là 1,25 tỉ đồng (bao gồm cả 50 triệu đồng mà V. mượn của chị M. trước đó). Ngày hôm sau, chị M. kiểm tra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện là giả.

Với hành vi như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 BLHS, xử phạt Nguyễn Thị V. 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 3 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Buộc Nguyễn Thị V. chấp hành hình phạt chung cho cả 2 tội là 16 năm tù.

Thông qua công tác kiểm sát bản án, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm nêu trên, đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử theo thủ tục phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật vì cấp sơ thẩm có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

leftcenterrightdel
 HĐXX chấp nhận toàn bộ kháng nghị của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. Ảnh: Lê Vũ Phong

Tại phiên tòa phúc thẩm, qua xét hỏi bị cáo, những người liên quan đã làm rõ được cấp sơ thẩm đã truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thị V. về các tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc không đánh giá chứng cứ của vụ án để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà H. với vai trò đồng phạm là bỏ lọt tội phạm.

Bởi lẽ giữa bà H. và Nguyễn Thị V. không có việc cầm cố, nợ nhau bất kỳ khoản tiền nào, nhưng bà H. đã chủ động giúp sức cho V. bằng cách giao giấy nhận nợ có nội dung thể hiện V. nợ tiền của mình và đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đứng tên V. cho chị M. để nhận từ chị M. số tiền 600 triệu đồng. Cả V. và H đều thừa nhận, nếu không có sự giúp sức của bà H. trong việc giao 2 loại giấy tờ nêu trên cho chị M., thì V. không thể chiếm đoạt tiền của chị M.

Từ đó, KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị và được HĐXX phúc thẩm TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

Lê Vũ Phong - X.N