Khoảng 20h30' ngày 21/11/2019, Nguyễn Văn T, SN 1985 ở nhà cùng với vợ là Hoàng Thị D, SN 1990 đều trú tại huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc (còn bố mẹ T. đều vắng nhà). Do cần tiền để tiêu xài cá nhân nên T. có xin tiền vợ để đi chơi nhưng chị D. không cho nên T. đã nảy sinh ý định lấy chiếc xe máy Wave nhãn hiệu MotoStar, BKS 20H1-1293, màu xanh (đã bị rơi mất biển số), đã cũ của ông Nguyễn Văn H (bố đẻ của T), chiếc xe này hàng ngày vẫn được mọi người trong gia đình T. và T. sử dụng làm phương tiện đi lại, được dựng ở góc sân.

Sau đó T. điều khiển xe máy đến nhà Phan Thanh Q, SN 1984 ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc để đi vay hộ tiền. Tại đây Q. mang đi cầm cố giúp T. chiếc xe máy BKS 20H1-1293 với giá 1 triệu đồng. T. cầm tiền về và sử dụng số tiền này mua thẻ điện thoại sử dụng hết, sau đó đến nhà Q. Đến khoảng 5h10' ngày 22/11/2019 thì trở về nhà.

Khi thấy T. về mà không mang theo xe máy, ông H (bố của T.) có hỏi T. về chiếc xe trên, nhưng T. nói đã mang đi cầm cố lấy tiền tiêu xài hết. Ngay ngày hôm đó ông Nguyễn Văn H. trình báo sự việc trên với cơ quan công an về việc T. có hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy của ông. Cùng ngày T. đã chuộc lại xe và trả cho ông H. chiếc xe trước đó anh ta đã mang đi cầm cố.

Kết luận định giá tài sản là chiếc “xe máy Wave nhãn hiệu MotoStar, BKS 20H1-1293” mà Nguyễn Văn T mang đi cầm cố có giá trị là 4 triệu đồng.

VKSND huyện Lập Thạch truy tố bị cáo T. về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Xung quanh việc giải quyết vụ án còn nhiều ý kiến khác nhau:

Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng, phải truy tố T. về Tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật Hình sự

Lợi dụng việc ông H không có nhà, không biết nên T. đã lén lút mang chiếc xe đi cầm cố mà không có sự cho phép của ông H. là người sở hữu chiếc xe trên. Hành vi của T. đã đủ yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 có đặc trưng là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, người quản lý tài sản, hoặc lợi dụng hoàn cảnh mà người quản lý tài sản không biết.

Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng, phải truy tố T. về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Khi T. lấy chiếc xe máy mang đi cầm cố thì có vợ của T. là D. ở nhà. Chị D. biết việc chồng lấy chiếc xe này và cho rằng T. lấy nó để đi công việc như hàng ngày T. vẫn làm, sau khi mang chiếc xe đi cầm cố được 1 triệu đồng, T. đã tiêu xài hết. Đến khi về tới nhà không thấy chiếc xe đâu, ông H. đã hỏi T. thì anh ta trả lời là mang đi cầm cố, điều này chứng tỏ sau khi cầm cố T. không có ý định muốn trả lại chiếc xe cho ông H, mặc dù biết việc làm đó là sai và có thế chuộc lại.

Việc T. lấy được chiếc xe đi cầm cố đã lợi dụng vào lòng tin của ông H. Bởi vì chiếc xe này ông H. để cho mọi người trong gia đình sử dụng làm phương tiện chung và T. lợi dụng việc sử dụng chung này lấy chiếc xe mang đi cầm cố. Sau khi có đơn trình báo của ông H. tới cơ quan công an T. đã chuộc lại chiếc xe trả cho ông H. là việc T. khắc phục hậu quả sau khi hành vi phạm tội xảy ra. Không phải là trường hợp trả lại tài sản để chứng minh T. không có mục đích chiếm đoạt chiếc xe máy của ông H.

Nhóm ý kiến thứ ba cho rằng, hành vi của T. lấy chiếc xe trên chỉ là vi phạm vào quan hệ dân sự giữa T. và ông H theo Điều 496 Bộ luật Dân sự.

Chiếc xe trên là sở hữu của ông H, việc ông H. để chiếc xe ở nhà và nói với mọi người trong gia đình sử dụng chung được coi là một hợp đồng bằng miệng, nhưng T. đã không sử dụng đúng mục đích mà ông H. đã đề ra, mang chiếc xe này đi cắm cũng không được sự đồng ý của ông H. Hành vi này của T. đã vi phạm vào hợp đồng mà hai bên đã đề ra.

Tác giả đồng tình với nhóm ý kiến thứ hai, bởi vì xuất phát từ nguyên nhân không có tiền tiêu xài nên T. đã lấy chiếc xe máy của ông H. mang đi cầm cố. Trước đó chiếc xe được mọi người trong gia đình sử dụng chung khi có công việc T. đã lợi dụng sự tin tưởng của ông H. lấy chiếc xe đi cầm cố lấy tiền tiêu xài.

Sau khi tiêu xài hết ông H, hỏi chiếc xe đâu thì H, nói là mình mang đi cầm cố và không có hành động hay thể hiện gì tới ý định chuộc chiếc xe trả lại cho ông H. Trong khi T, có khả năng chuộc lại chiếc xe. Đến khi thấy ông H có đơn trình báo đến cơ quan công an thì T mới chuộc lại chiếc xe trên, nhưng đó là việc T, khắc phục hậu quả do hành vi trước đó của mình gây ra. Nên truy tố T về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 175 là hoàn toàn có căn cứ.

Rất mong có sự trao đổi của độc giả. Mọi ý kiến xin gửi về mail baovephapluat24h@gmail.com. 

Phùng Đức Tùng - VKSND huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc