Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và kiện đòi quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn C. với bị đơn ông Nguyễn Văn N. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có 14 người. Trong đó có UBND huyện Lục Nam và UBND thị trấn Đồi Ngô, huyện Lục Nam được giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2022/DS-ST ngày 17/9/2022 của TAND huyện Lục Nam và Bản án dân sự phúc thẩm số 73/2023/DS-PT ngày 26/4/2023 của TAND tỉnh Bắc Giang, VKSND tỉnh Bắc Giang thấy:

Năm 2004, ông Nguyễn Văn A. chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn C. thửa đất số 88 và ông C. đã làm thủ tục kê khai để cấp GCNQSDĐ. Tại hồ sơ cấp GCNQSDĐ do Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lục Nam cung cấp có các tài liệu là bản phô tô: Đơn xin đăng ký cấp GCNQSDĐ mang tên ông Nguyễn Văn C.; Tờ trình của Phòng địa chính - Nông nghiệp về việc xét hợp thức hóa và cấp GCNQSDĐ ở cho hộ ông C.; Thông báo của UBND huyện Lục Nam về việc nộp nghĩa vụ tài chính gửi ông C.; Giấy nộp tiền vào Kho bạc nhà nước mang tên ông Đoàn Quang T.; Tờ trình số 129/TTr-UB ngày 23/7/2004 của UBND thị trấn Đồi Ngô về việc xin cấp GCNQSDĐ ở đô thị (có danh sách hộ đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ ở thuộc thị trấn Đồi Ngô và tên ông Đoàn Quang T.).

Ngày 9/8/2004, Chủ tịch UBND huyện Lục Nam ra Quyết định số 1668/QĐ-CT về việc cấp GCNQSDĐ cho các hộ, cá nhân, trong đó có hộ ông Đoàn Quang T. đối với thửa đất số 88.

Như vậy, tài liệu có trong hồ sơ cấp GCNQSDĐ nêu trên (là tài liệu phô tô) có mâu thuẫn về chủ sử dụng đất. Đơn xin cấp GCNQSDĐ và Tờ trình của Phòng Địa chính - Nông nghiệp mang tên ông C.; Giấy nộp tiền và Tờ trình của UBND thị trấn Đồi Ngô lại mang tên ông T. nhưng UBND huyện Lục Nam không yêu cầu làm rõ mà đã cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T. là không đúng (không đủ điều kiện để được cấp GCNQSDĐ), không thực hiện đúng quy định về thủ tục đăng ký đất đai được quy định tại Chương 3, Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính.

Từ những sai sót này dẫn đến thửa đất số 88 sau đó được chuyển nhượng qua nhiều người và đều đã được cấp GCNQSDĐ, cụ thể: Ngày 11/4/2005, UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ cho hộ bà Hoàng Thị T.; ngày 9/2/2010 cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Văn C. và ngày 3/7/2015 cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Văn N. và bà Vũ Thị B. (chủ sở dụng hiện nay).

leftcenterrightdel
 Kiểm sát viên VKSND tỉnh Bắc Giang trong một phiên tòa dân sự.

Từ năm 2011 và nhiều năm tiếp theo, ông C. và ông A. (được ông C. ủy quyền) liên tục làm đơn gửi đến UBND thị trấn Đồi Ngô, UBND huyện Lục Nam và các cơ quan tham mưu đề nghị xem xét lại việc cấp GCNQSDĐ cho ông Đoàn Quang T.

Ngày 4/10/2011, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lục Nam đã có báo cáo số 780/BCKL-TNMT gửi UBND huyện Lục Nam, UBND thị trấn Đồi Ngô, ông A., ông C.: Yêu cầu ông Trần Văn C. giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất đối với thửa đất số 88; UBND thị trấn Đồi Ngô có trách nhiệm kiểm tra, giám sát trong thời gian chờ quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND huyện Lục Nam.

Tuy nhiên, khi khiếu nại của ông C. chưa được giải quyết, ngày 11/6/2015, ông Trần Văn C. và bà Trần Thị C. lập Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 88 cho ông Nguyễn Văn N. và bà Vũ Thị B., Hợp đồng được công chứng tại Văn phòng công chứng Lục Nam.

UBND thị trấn Đồi Ngô, UBND huyện Lục Nam đều đã biết việc ông C. đang khiếu nại liên quan đến quyền sử dụng thửa đất số 88, khiếu nại chưa được giải quyết. Nhưng, UBND thị trấn Đồi Ngô vẫn xác nhận thửa đất không có tranh chấp, đủ điều kiện chuyển nhượng. Ngày 3/7/2015, UBND huyện Lục Nam vẫn cấp GCNQSDĐ cho ông N. và bà B., là không đúng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.

Đến ngày 9/6/2017, UBND huyện Lục Nam mới ban hành văn bản số 766/UBND-TNMT trả lời đơn của ông A., ông C. Trong đó có nội dung: Năm 2004, UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Đoàn Quang T., lô đất số 88... là không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật, không thực hiện đúng các bước theo quy định..., vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Chủ tịch UBND huyện Lục Nam hướng dẫn ông A., ông C. có đơn khởi kiện tại Tòa án để được giải quyết.

Xuất phát từ việc UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ cho ông T. không đúng quy định của pháp luật; ông C. liên tục có đơn khiếu kiện từ năm 2011 đến nay nhưng UBND huyện Lục Nam không tổ chức kiểm tra, rà soát lại quy trình cấp GCNQSDĐ cho ông T., không chỉ đạo giải quyết kịp thời, dứt điểm khiếu nại của ông C., không hướng dẫn ông C. khởi kiện ra Tòa án là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp phức tạp, kéo dài.

Hiện tại, thửa đất số 88 thuộc quyền sử dụng của ông N., bà B. Ông C. khởi kiện yêu cầu ông N., bà B. phải trả lô đất nhưng tại Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên đã giải quyết không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C. (do việc nhận chuyển nhượng QSDĐ của ông N., bà B. là ngay tình, được pháp luật bảo vệ theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015), quyền và lợi ích hợp pháp của ông C. bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Ngoài ra, việc lưu trữ, bảo quản hồ sơ địa chính của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Lục Nam không đúng quy định (không tìm thấy bản gốc các tài liệu liên quan đến việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T. đối với thửa đất số 88), không đúng quy định tại Điều 23, Điều 29, Điều 30 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, gây khó khăn cho việc thu thập tài liệu chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án của Tòa án, ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác, cung cấp thông tin khi cần xem xét lại việc cấp GCNQSD đất của UBND huyện Lục Nam.

Để khắc phục và phòng ngừa vi phạm trong việc lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ, giải quyết khiếu nại liên quan đến đất đai; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân; hạn chế thấp nhất việc phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai, Viện trưởng VKSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành văn bản kiến nghị Chủ tịch UBND huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang:

Chỉ đạo kiểm điểm, rút kinh nghiệm, làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan đã để xảy ra các vi phạm, thiếu sót nêu trên. Có biện pháp khắc phục, phòng ngừa những vi phạm trong công tác cấp GCNQSDĐ; không để xảy ra vi phạm trong thời gian tới.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác lập hồ sơ, cấp giấy CNQSDĐ của các đơn vị có liên quan. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đất đai đối với các cơ quan, tổ chức, Nhân dân trên địa bàn. Khi có khiếu kiện liên quan đến đất đai cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn kiểm tra, rà soát để giải quyết dứt điểm; trường hợp không thuộc thẩm quyền thì hướng dẫn người dân thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật.

H. Hải