Theo Bộ Y tế cho biết, ngày 17/6/2010, Quốc hội Khóa XII kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật an toàn thực phẩm số 55/2010/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011.

Luật an toàn thực phẩm với nhiều quy định mới mang tính đột phá, là cơ sở pháp lý quan trọng, nội dung các quy định đã bám sát các yêu cầu quản lý đối với thực phẩm nước ta, tập trung vào các vấn đề chính trong công tác quản lý an toàn thực phẩm.

Có thể thấy sau hơn 12 năm thi hành Luật an toàn thực phẩm và các Nghị định quy định chi tiết, các quy định về an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại hiện hành đã tạo hành lang pháp lý tích cực cho hoạt động kinh doanh thực phẩm trong nước cũng như quốc tế. 

Tuy nhiên đến nay, Luật an toàn thực phẩm năm 2010 đã có nội dung, quy định không còn phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm cũng như điều kiện kinh tế-xã hội.

Thứ nhất, một số quy định và cấp chứng nhận hợp quy về công bố hợp quy đối với sản phẩm thực phẩm chưa phù hợp với thực tiễn (giai đoạn 2010-2017) vì số lượng sản phẩm thực phẩm nhiều nhưng số lượng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia còn ít; điều kiện sản xuất, kinh doanh chưa sát đối với hộ sản xuất nhỏ lẻ (tuy sản xuất nhỏ lẻ nhưng cung cấp một khối lượng thực phẩm rất lớn cho nhu cầu của xã hội nếu không chú ý quản lý đối tượng này sẽ dẫn đến nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm rất lớn).

Thứ hai, còn thiếu quy định về quản lý như: Quy định về chỉ tiêu an toàn thực phẩm đối với thực phẩm có nguồn gốc thực vật còn thiếu, chưa đồng bộ để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay; quy định về phân cấp trong điều tra ngộ độc thực phẩm; quy định về thu hồi Giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy/đăng ký bản công bố sản phẩm chưa ban hành quy chuẩn kỹ thuật địa phương về chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt; thiếu văn bản quy định về đảm bảo nguồn lực để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về an toàn thực phẩm; thiếu tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các sản phẩm truyền thống của địa phương như tinh bột nghệ, dụng cụ ăn uống bằng tre và mo cau, men rượu... 

Do lĩnh vực an toàn thực phẩm rộng, liên quan đến nhiều quy định của nhiều văn bản pháp luật khác nhau nên một số quy định hướng dẫn Luật an toàn thực phẩm còn chưa đồng bộ. Ví dụ: Quy định việc quản lý về an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm không thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm của 3 ngành chưa có sự thống nhất (đối với 2 ngành (Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương) thì có các văn bản hướng dẫn quản lý bằng hình thức ký bản cam kết bảo đảm an toàn thực phẩm, riêng ngành Y tế không thực hiện hình thức ký bản cam kết bảo đảm ATTP; chưa thống nhất trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đối với loại hình kinh doanh dịch vụ ăn uống (cụ thể là loại hình nhà hàng trong khách sạn, bếp ăn tập thể không có đăng ký ngành nghề kinh doanh thực phẩm); chưa thống nhất trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đối với loại hình chợ...

leftcenterrightdel
 Lực lượng chức năng kiểm tra, phát hiện 1 tấn thực phẩm đông lạnh không rõ nguồn gốc xuất xứ. (Ảnh tư liệu: Báo Tin tức)

Thứ ba, một số khái niệm còn thiếu như sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn; chưa thống nhất giữa các luật như khái niệm "sản xuất thực phẩm" và "kinh doanh thực phẩm" chưa thống nhất giữa Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Luật an toàn thực phẩm; khái niệm "cấm sử dụng", "danh mục được phép sử dụng", "chưa được phép sử dụng", "chưa được phép lưu hành tại Việt Nam"... chưa được thống nhất và giải thích rõ ràng trong các tiêu chuẩn và quy chuẩn để thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện Luật an toàn thực phẩm.

Thứ tư, một số quy định còn chưa đồng bộ, khó triển khai như tại điểm a, khoản 1 Điều 36 Luật an toàn thực phẩm, quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm trong đó quy định hồ sơ cấp có "Giấy xác nhận đã được tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm của chủ cơ sở và của người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định của Bộ trưởng Bộ quản lý ngành", khoản 1 Điều 10 Nghị định số 17/2020/NĐ-CP ngày 5/2/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương quy định "Người trực tiếp sản xuất phải được tập huấn kiến thức an toàn thực phẩm và được chủ cơ sở xác nhận". Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn Luật an toàn thực phẩm chưa quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm thuộc cơ quan nào thực hiện tập huấn kiến thức an toàn thực phẩm. Việc giao cho các doanh nghiệp, cá nhân tự tổ chức tập huấn không đảm bảo tính khách quan và tính hiệu quả trong thi hành pháp luật.

Điều 37 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 quy định giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm có hiệu lực trong thời gian 3 năm; trước 6 tháng tính đến ngày giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm hết hạn, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải nộp hồ sơ xin cấp lại...; như vậy, thời gian làm hồ sơ để cấp lại giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm trước ngày hết hạn là quá dài, gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm.

Bộ Y tế cho biết, để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện thể chế lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm, trước yêu cầu mới của thực tiễn, hội nhập quốc tế, khắc phục những tồn tại, bất cập đặt ra trong quá trình thi hành Luật an toàn thực phẩm, cần thiết phải xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật an toàn thực phẩm trên cơ sở phát huy ưu điểm và khắc phục các hạn chế của Luật này.

Về mục đích, việc sửa đổi Luật sẽ đáp ứng yêu cầu mới đặt ra, giải quyết vướng mắc trong thực tiễn, đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan trong xây dựng pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, bảo đảm chất lượng, khả thi.

Luật an toàn thực phẩm sửa đổi sẽ xử lý các bất cập, chưa phù hợp với thực tế. Đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung Luật ATTP nhằm thi hành các cam kết về loại bỏ rào cản kỹ thuật đối với thương mại trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, tham gia và đang đàm phán, như Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA, Hiệp định RCEP, Hiệp định ASEAN…

Đồng thời, cũng sẽ rà soát, sửa đổi những điều khoản, quy định có vướng mắc lớn, chưa phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội trong thực tiễn hơn 12 năm thi hành Luật, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đề nghị xây dựng Luật đề cập đến 3 nhóm chính sách gồm: 

Nhóm chính sách 1: Quản lý nhà nước đối với các sản phẩm thực phẩm, trong đó tập trung vào các vấn đề về đăng ký và công bố sản phẩm, kiểm nghiệm thực phẩm, kiểm tra nhà nước và quản lý các sản phẩm phải kiểm soát đặc biệt.

Nhóm chính sách 2: Quản lý nhà nước đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

Nhóm chính sách 3: Bộ máy tổ chức và phân công phân cấp quản lý nhà nước về ATTP.

Số liệu thống kê từ các bộ và UBND của 63 tỉnh/thành phố thì trong giai đoạn từ 2011 đến nay, hệ thống pháp luật về ATTP của Việt Nam đã có trên 250 văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) do các cơ quan trung ương ban hành, trong đó Luật ATTP và 14 văn bản Luật của Quốc hội có nội dung liên quan đến ATTP, 52 Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ, 18 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 17 Thông tư của Bộ Công Thương, 62 Thông tư của Bộ Y tế, 60 Thông tư của Bộ NN&PTNT, đặc biệt là Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011, Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 21/10/2022 của Ban bí thư về tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm trong tình hình mới, trong đó Luật an toàn thực phẩm là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất.

P.V