Đối với câu hỏi của bạn, Luật sư Lê Hiếu – Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng có ý kiến như sau:

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:

“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”

Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”.

Theo đó, nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, pháp luật không công nhận là vợ chồng và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, nếu có con chung, pháp luật vẫn thừa nhận và quyền nghĩa vụ của cha mẹ đối với con ngoài hôn nhân cũng được xác định như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. Trường hợp có tranh chấp về việc nuôi con chung dù không đăng ký kết hôn vẫn được giải quyết theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 2 và Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”.

Với trường hợp của bạn, bạn và bố của bé cần thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con sau khi không còn chung sống như vợ chồng. Trường hợp không thỏa thuận được, bạn có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, việc tự ý “bắt” con chung khi chưa có thỏa thuận hoặc quyết định của Tòa án là vi phạm pháp luật.

Ngoài ra, dù tự thỏa thuận về việc nuôi con hay yêu cầu Tòa án giải quyết, bạn cũng cần lưu ý một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của cha mẹ đối với con chung sau khi không còn chung sống như vợ chồng sau:

- Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi dưỡng, có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Khi hoàn cảnh thay đổi, vì quyền lợi của đứa trẻ và/hoặc có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có thẩm quyền, tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

 

                                                                       
Hương My - Bình Minh