Vấn đề này Luật sư Lê Anh Ngọc (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) có ý kiến như sau:

leftcenterrightdel
 Luật sư Lê Anh Ngọc.

 

Xác định người chưa thành niên hay đã thành niên

Hiện nay, việc xác định người chưa thành niên hay đã thành niên có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các thủ tục, giao dịch dân sự.

Căn cứ tại khoản 3 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người chưa thành niên như sau:

Điều 21. Người chưa thành niên

1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Theo đó, người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

Như vậy, giao dịch dân sự của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Ngược lại, theo khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

Đồng thời, người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường hợp người thành niên mà bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người thành niên có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình.

Ví dụ: Điều kiện để được đăng ký kết hôn nêu tại Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình là nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Khi đó, cả nam và nữ đều là người đã thành niên, đã nhận thức đầy đủ về việc kết hôn của mình và hoàn toàn tự nguyện, không bị ai can thiệp hay ép buộc… kết hôn. Đồng thời, điều kiện kết hôn cũng khẳng định, nam nữ được phép kết hôn nếu không bị mất năng lực hành vi dân sự.

Giao dịch dân sự của người chưa thành niên thực hiện thế nào?

Tùy vào từng độ tuổi của người chưa thành niên để xác định giao dịch dân sự của người chưa thành niên. Cụ thể như sau:

Với người chưa đủ 6 tuổi

Giao dịch dân sự của người chưa thành niên trong trường hợp này sẽ do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện. Trong đó, người đại diện theo pháp luật của cá nhân là con chưa thành niên là cha, mẹ.

Như vậy, giao dịch dân sự của người chưa thành niên dưới 6 tuổi sẽ do cha, mẹ của người này thực hiện. Tuy nhiên, nếu giao dịch đó được thực hiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó thì sẽ không bị vô hiệu theo quy định của khoản 2 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Với người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi

Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ các loại giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi của người từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi.

Với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi

Với đối tượng này, người chưa thành niên từ đủ 15 – 18 tuổi có thể tự mình thực hiện, xác lập giao dịch dân sự trừ các loại giao dịch liên quan đến bất động sản hoặc động sản phải đăng ký và các loại giao dịch khác mà quy định của pháp luật yêu cầu người đại diện phải đồng ý.

Ngoài ra, khi thực hiện các giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự phải đáp ứng điều kiện có hiệu lực nêu tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm:

  • Chủ thể có năng lực hành vi dân sự phải phù hợp với các loại giao dịch được xác lập;
  • Việc tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện;
  • Nội dung, mục đích của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
  • Nếu hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của loại giao dịch mà người chưa thành niên thực hiện thì giao dịch dân sự này phải đáp ứng điều kiện đó.

Người chưa thành niên tự xác lập giao dịch dân sự thì xử lý như thế nào?

Người chưa thành niên tự mình xác lập các giao dịch dân sự chưa đủ điều kiện để giao dịch theo quy định pháp luật thì giao dịch dân sự có có thể bị vô hiệu.

 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

- Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

- Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

- Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

- Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

- Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

 

 

Hương My(T/h)