90,4% phụ nữ bị bạo lực không tìm kiếm sự giúp đỡ

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ) được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/10/2007, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2008. Việc Quốc hội thông qua và ban hành Luật PCBLGĐ đã đưa Việt Nam là một trong số quốc gia tiên phong luật hóa những vấn đề cơ bản trong hiến chương của Liên hợp quốc về quyền con người, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong thực hiện các điều ước quốc tế, kiên quyết đấu tranh chống lại những hành vi tiêu cực trái với giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình, xóa bỏ những hủ tục, tư tưởng lạc hậu để xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. 

Sau hơn 13 năm thi hành Luật, nhận thức của người dân, cộng đồng và chính quyền các cấp đã chuyển biến tích cực. Trách nhiệm PCBLGĐ không chỉ riêng của một ngành, một cấp mà thuộc trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Mọi hành vi BLGĐ đều bị lên án và xử lý. Tình trạng BLGĐ đã có xu hướng giảm đáng kể theo từng năm cả về số vụ và mức độ bạo lực.

Mặc dù đạt được kết quả nêu trên, song tình trạng BLGĐ vẫn còn diễn biến phức tạp, khó lường. Một số địa phương vẫn xảy ra các vụ BLGĐ nghiêm trọng. Điều tra quốc gia bạo lực với phụ nữ được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Tổng Cục thống kê, Quỹ dân số liên hợp quốc tại Việt Nam thực hiện năm 2019, công bố năm 2020 cho thấy: Có 31,6% phụ nữ phải chịu ít nhất một hình thức bạo lực trong 12 tháng (kể từ lúc điều tra), cứ 3 phụ nữ có gần 1 người (32%) bị chồng bạo lực thể xác/hoặc bạo lực tình dục. Đáng chú ý có 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục không tìm kiếm sự giúp đỡ. Chỉ có 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của Công an. Kết quả điều tra này còn cho thấy, BLGĐ với phụ nữ gây thiệt hại 1,8% GDP mỗi năm.

Từ thực trạng về kết quả thực hiện Luật PCBLGĐ, việc đề xuất sửa đổi Luật PCBLGĐ (năm 2007) là rất cần thiết. 

Theo cơ quan chủ trì soạn thảo, việc sửa đổi Luật PCBLGĐ hiện hành nhằm hoàn thiện thể chế về công tác PCBLGĐ theo hướng tăng cường các biện pháp bảo vệ các quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế nhà nước, xã hội cũng như vai trò của gia đình về lĩnh vực này, góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.

Nghiêm cấm lợi dụng hoạt động phòng, chống BLGĐ để trục lợi

Dự thảo Luật PCBLGĐ (sửa đổi) gồm 9 chương, 80 điều (tăng 3 chương và 34 điều so với Luật PCBLGĐ hiện hành). 

leftcenterrightdel
 Tuyên truyền về phòng, chống BLGĐ đến từng hộ dân. (Ảnh minh hoạ)

Nội dung Luật PCBLGĐ (sửa đổi) tập trung vào 3 nội dung chính trong các chính sách đã được Chính phủ thông qua, bao gồm: Các biện pháp phòng ngừa BLGĐ, tăng cường bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân BLGĐ; cơ chế phối hợp và các điều kiện bảo đảm để thực hiện công tác PCBLGĐ; khuyến khích xã hội hóa công tác PCBLGĐ.

Theo dự thảo Luật, hành vi BLGĐ gồm: Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây tổn hại về thể chất, tinh thần; ngăn cản thành viên gia đình tham gia các hoạt động hợp pháp.

Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong các mối quan hệ giữa các thành viên gia đình với nhau.

Phát tán hình ảnh, thông tin, tài liệu riêng tư của thành viên gia đình khi chưa được sự đồng ý của người có liên quan.

Cưỡng ép quan hệ tình dục; cưỡng ép thực hiện các hành vi tình dục mà vợ hoặc chồng không mong muốn; cưỡng ép nghe, xem âm thanh, hình ảnh khiêu dâm.

Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

Chiếm đoạt, huỷ hoại hoặc có hành vi cố ý khác chiếm đoạt, hủy hoại tài sản riêng của thành viên gia đình hoặc tài sản chung của thành viên gia đình.

Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ.

Kiểm soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

Về nguyên tắc phòng, chống BLGĐ đó là: Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống BLGĐ, chú trọng công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật và các kiến thức, kỹ năng về phòng, chống BLGĐ phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và đảm bảo bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình.

Vi phạm pháp luật trong phòng, chống BLGĐ phải được ngăn chặn, xử lý kịp thời, đảm bảo tính răn đe, giáo dục.

Đảm bảo các nguyên tắc bình đẳng giới và quyền con người trong phòng, chống BLGĐ.

Phối hợp liên ngành trong phòng, chống BLGĐ và bảo vệ hỗ trợ người bị BLGĐ.

Thực hiện nêu gương trong phòng, chống BLGĐ đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang.

Ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên yếu thế trong gia đình (phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật), và bảo đảm yếu tố nhạy cảm giới trong xử lý vụ việc BLGĐ.

Người có hành vi BLGĐ với phụ nữ đang mang thai, người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em; người có hành vi bạo lực trong tình trạng đã sử dụng rượu, bia; người có hành vi bạo lực đã bị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý mà vẫn tiếp tục vi phạm là tình tiết tăng nặng trong xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống BLGĐ.

Về những hành vi bị cấm, ngoài các hành vi BLGĐ quy định tại Điều 4 Luật này thì hành vi bị cấm còn bao gồm: Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi BLGĐ; dung túng, bao che BLGĐ.

Làm lộ, phát tán thông tin, làm sai lệch thông tin về BLGĐ dưới mọi hình thức.

Sử dụng các ứng dụng của khoa học, công nghệ nhằm kích động BLGĐ; nói xấu hoặc đe dọa thành viên gia đình.

Trả thù, đe dọa trả thù người giúp đỡ người bị BLGĐ, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi BLGĐ; lợi dụng hoạt động phòng, chống BLGĐ để trục lợi.

P.V