leftcenterrightdel
Các bị cáo tại phiên tòa

Bảy bị cáo trong vụ án này gồm có Hoàng Văn Toàn, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị; Trần Sơn Nam, nguyên Tổng giám đốc;  Lâm Hồng Trinh, nguyên Phó Tổng giám đốc; Ngô Trí Đức, nguyên Phó Tổng giám đốc; Phạm Quỳnh Ngân, nguyên Trưởng phòng pháp chế; Trần Thị Hồng Phương, nguyên Kế toán trưởng và Hồ Trọng Thắng, nguyên Trưởng phòng Quản lý Tín dụng.

Riêng Phạm Công Danh và Phan Thành Mai trong vụ án này được triệu tập với vai trò người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, vì sức khoẻ yếu, ngay khi phiên toà bắt đầu, Phạm Công Danh đã phải ra khỏi khán phòng xét xử.

leftcenterrightdel
 VKSND TP.Hồ Chí Minh đọc cáo trạng

Theo cáo trạng, ngày 28/12/2012, 7 đối tượng có tên trên đã thẩm định, phê duyệt cấp tín dụng cho Công ty Thịnh Quốc vay 370 tỷ đồng và Công ty Đại Hoàng Phương vay 280 tỷ đồng.

 Quá trình xem xét, phê duyệt cấp tín dụng cho Công ty Thịnh Quốc và Công ty Đại Hoàng Phương vay vốn, các thành viên Hội đồng tín dụng, gồm 7 bị cáo đã không thực hiện đúng các quy định về cho vay, như: Hồ sơ vay vốn không có báo cáo tài chính của khách hàng, để đánh giá tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh. Do đó, không đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng, không đánh giá được rủi ro về tài chính, nhưng các bị cáo không yêu cầu bổ sung báo cáo tài chính, tờ khai nộp cho cơ quan thuế để xem xét trước khi phê duyệt cho vay.

Trên thực tế, kết quả điều tra cho thấy các công ty này đều không có hoạt động sản xuất kinh doanh, hồ sơ vay vốn, phương án kinh doanh, hợp đồng mua bán, hợp đồng hứa chuyển nhượng - hứa nhận chuyển nhượng đều được lập khống.

 Các bị cáo là thành viên Hội đồng tín dụng của ngân hàng Đại Tín khi phê duyệt cho vay đã bỏ qua cảnh báo rủi ro về tài chính, về tài sản đảm bảo của cán bộ thẩm định, mà chỉ căn cứ vào Chứng thư thẩm định giá 1063 ngày 24/12/2012 của Công ty Cổ phần tư vấn, dịch vụ về tài sản, bất động sản DATC - Bộ Tài chính đối với thửa đất số 130, tờ bản đồ số 3, diện tích 5.104 m2 tại lô số 03 Khu phức hợp TM và DV cao tầng tại khu vực Sân vận động Chi Lăng, Hải Châu II, Hải Châu, Đà Nẵng. Nhưng việc áp dụng giá của chứng thư này để phê duyệt cho vay là không có căn cứ, vì chứng thư này được tính toán dựa trên chỉ tiêu quy hoạch xây dựng giả định của khu đất, là được quy hoạch xây dựng công trình 60 tầng làm trung tâm thương mại dịch vụ. Chứng thư thẩm định giá đã ghi rõ điều kiện ràng buộc của mức giá trên là theo đúng thông số chỉ tiêu quy hoạch giả định và kết quả này được sử dụng làm cơ sở tham khảo cho mục đích thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp vốn liên doanh, việc lựa chọn mức giá phụ thuộc các bên liên quan. Tờ trình thẩm định giá tài sản thế chấp của Chi nhánh Sài Gòn cũng đã đề xuất phải yêu cầu khách hàng cung cấp các giấy tờ pháp lý (bản gốc) liên quan đến lô đất và cảnh báo có rủi ro về tài sản bảo đảm. Thực tế, dự án tại khu đất sân Vận động Chi Lăng chưa giải tỏa xong, chưa được cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án, chưa có quy hoạch chi tiết được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và cũng không có bất kỳ hoạt động đầu tư nào, nên giá trị quyền sử dụng xác định tại chứng thư này là giá trị quyền sử dụng đất hình thành trong tương lai, không thể làm căn cứ phê duyệt cấp tín dụng. Mặc dù, chứng thư đã nêu rõ điều kiện ràng buộc và cán bộ thẩm định đã cảnh báo rủi ro về tài sản bảo đảm, nhưng các bị can đã bỏ mặc, vẫn sử dụng chứng thư thẩm định giá này làm căn cứ phê duyệt cấp tín dụng cho Công ty Thịnh Quốc vay 370 tỷ đồng và Công ty Đại Hoàng Phương vay 280 tỷ đồng là trái pháp luật.

Hành vi vi phạm trong việc phê duyệt cấp tín dụng cho 02 khoản vay trên của các đối tượng đã gây thiệt hại cho Ngân hàng Đại Tín (sau này là Ngân hàng VNCB) tổng số tiền là 471.181.360.000 đồng.

Báo Bảo vệ pháp luật sẽ tiếp tục thông tin.

Hoa Việt

 

Hành vi của Hoàng Văn Toàn, Trần Sơn Nam, Lâm Hồng Trinh, Hồ Trọng Thắng, Ngô Trí Đức, Trần Thị Hồng Phương và Phạm Thị Quỳnh Ngân đã vi phạm khoản 1 Điều 94 Luật các tổ chức tín dụng; vi phạm Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/12/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; vi phạm khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 15 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.