Ngày 12/11, TAND TP Hà Nội đã mở phiên toà xét xử đối với bị cáo Nguyễn Đức Hùng (SN 1987, trú tại quận Long Biên, TP Hà Nội) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS.

Theo hồ sơ vụ án, ngày 7/11 Cơ quan Cảnh sát điều tra TP Hà Nội nhận được đơn của anh Nguyễn Đình T. và đơn của anh Tạ Tiến T. đều là cán bộ công an tố giác Nguyễn Đức Hùng có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới hình thức nhận tiền để xin cho các hạ sỹ quan, chiến sỹ nghĩa vụ quân sự có thời hạn được xét tuyển biên chế vào ngành Công an.

leftcenterrightdel
 Bị cáo Nguyễn Đức Hùng tại phiên xét xử.

Theo đó, Cơ quan điều tra đã xác minh được Nguyễn Đức Hùng là lao động tự do, không có việc làm ổn định, không thuộc biên chế trong ngành Công an và không có chức năng, nhiệm vụ trong việc tuyển dụng cán bộ biên chế trong ngành Công an.

Tuy nhiên, khoảng đầu năm 2017, qua tìm hiểu, Hùng biết nhiều cán bộ, chiến sỹ công an nghĩa vụ muốn được phục vụ lâu dài trong ngành Công an hoặc đang công tác muốn chuyển đơn vị công tác nên đã tự giới thiệu mình là cán bộ công tác tại đơn vị xây dựng lực lượng của Bộ Công an.

Thông qua mối quan hệ xã hội, anh Nguyễn Đình T. quen biết Nguyễn Đức Hùng và được Hùng giới thiệu là cán bộ công tác tại Tổng cục III (Bộ Công an), có nhiều mối quan hệ trong ngành Công an và có khả năng xin được cho các trường hợp là hạ sỹ quan, chiến sỹ nghĩa vụ phục vụ có thời hạn trong lực lượng Công an nhân dân đã hết hoặc sắp hết thời gian phục vụ được xét tuyển biên chế vào ngành...

Hùng nói với anh Đình T. và Tiến T. nếu có trường hợp nào thì báo, Hùng sẽ giúp và phải mất chi phí theo từng trường hợp cụ thể. Do tin tưởng Hùng nên từ tháng 11/2017 đến cuối năm 2018, hai anh T. đã chuyển cho Hùng hơn 2,6 tỉ đồng để nhờ Hùng xin cho vợ mình và 8 trường hợp khác được xét tuyển biên chế vào ngành Công an.

Sau khi nhận tiền, Hùng đã sử dụng số tiền trên vào mục đích cá nhân, không xin được cho trường hợp nào và không trả lại tiền.

Đối với anh Nguyễn Đình T. kết quả điều tra xác định do tin tưởng Nguyễn Đức Hùng là cán bộ Công an nên anh này đã nhận tiền của người thân rồi đưa cho Hùng để nhờ xin tuyển dụng vào ngành Công an và chuyển đơn vị công tác. Sau khi nhận tiền của những người liên quan, anh T. đã chuyển cho Nguyễn Đức Hùng theo yêu cầu và bớt lại một phần để sử dụng cá nhân.

Do Hùng không lo được việc và không trả lại tiền nên anh Nguyễn Đình T. đã dùng tiền cá nhân để trả lại cho những người đưa tiền. Đến nay, những người này không yêu cầu xem xét xử lý T. và không đề nghị bồi thường.

Xét thấy, anh T. không có ý thức chiếm đoạt tiền của những người có liên quan nên không đồng phạm với Hùng về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; vì vậy, CQĐT không đề cập xử lý đối với Nguyễn Đình T. trong vụ án.

Tại Cơ quan điều tra, Hùng khai, ngoài hành vi phạm tội nêu trên, Hùng còn nhận tiền và dùng tiền để đưa cho một số lãnh đạo các Tổng cục, Bộ Công an, để xin bút phê được duyệt chuyển vùng theo nguyện vọng. Hùng khai đã đưa tiền cho các cán bộ thuộc Phòng Tổ chức cán bộ, Công an thành phố Hà Nội, để hoàn thiện hồ sơ và đã xin chuyển vùng thành công cho 11 trường hợp.

Kết quả điều tra xác định, chỉ có lời khai của Hùng, tin nhắn chung chung, không rõ nội dung và không có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh Hùng nhận tiền của các chiến sỹ có nhu cầu chuyển công tác và chuyển tiền cho những người có chức vụ để nhờ can thiệp giúp đỡ. Do đó, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để kết luận hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ của Nguyễn Đức Hùng và những người liên quan.

Sau khi nghị án, HĐXX sơ thẩm TAND TP Hà Nội cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo Hùng là đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng và làm mất uy tín trong ngành Công an nhân dân nên cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục tội phạm và phòng ngừa chung trong xã hội.

Theo đó, HĐXX đã quyết định tuyên phạt bị cáo Nguyễn Đức Hùng mức án 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

 

Ngọc Anh