Nội dung vụ án: Ông Trần Tiến Dũng có quan hệ quen biết với vợ chồng bà Nhung, ông Thảnh là chủ Công ty kinh doanh vật liệu xây dựng Đồng Phú Thành ở thôn Đồng Cống, xã Đồng Phú, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; ông Dũng khởi kiện yêu cầu bà Nhung trả số nợ gốc và lãi tính đến ngày 25/11/2019 là 1,25 tỉ đồng (làm tròn).

Trong đó gồm các khoản nợ: Ngày 2/8/2015 (dương lịch) bà Nhung vay 780 triệu đồng, thời hạn vay 3 tháng, lãi suất theo ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam; ngày 14/5/2015 và 15/5/2015 (âm lịch) vay 150 triệu đồng, thời hạn vay 3 tháng, hẹn trả 10/7/2015 (âm lịch) lãi suất trong hạn 0%, quá hạn theo lãi suất ngân hàng Nông nghiệp; ngày 26/10/2015, vay 50 triệu đồng, thời hạn vay 3 ngày, hẹn 28/10/2019 trả, lãi trong hạn 0%, quá hạn theo lãi suất ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Bà Nhung cho rằng hợp đồng vay vốn ngày 2/8/2015 số tiền 780 triệu đồng là bị ông Dũng lừa dối. Đối với các khoản nợ khác bà đã trả nợ ông Dũng một phần, chỉ còn nợ số tiền gốc là 45 triệu đồng và lãi.

Bản án của TAND huyện Đông Hưng đã tuyên chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Nguyễn Thị Nhung phải trả cho ông Trần Tiến Dũng và bà Vũ Thị Nhụ các khoản tiền gốc 490 triệu đồng + lãi 202 triệu đồng = 692 triệu đồng (làm tròn).

leftcenterrightdel
Ảnh minh họa 

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, VKSND huyện Đông Hưng đã xác định bản án có những vi phạm sau: 

Về thủ tục tố tụng, Tòa án thu thập thiếu chứng cứ, vi phạm Điều 97 Bộ luật TTDS, ảnh hưởng đến việc xác định ai là người có trách nhiệm trực tiếp trả nợ, phạm vi trả nợ và xác định tư cách những người tham gia tố tụng.

Cụ thể: Hồ sơ vụ án chưa thể hiện rõ ràng các khoản vay trên ông Dũng cho Công ty Đồng Phú Thành vay, cho vợ chồng bà Nhung vay hay cho cá nhân bà Nhung vay. Nếu xác định là cho cá nhân bà Nhung vay hoặc cho vợ chồng vay thì khoản vay thứ nhất 780 triệu đồng và khoản vay thứ hai 150 triệu đồng phát sinh khi chồng bà Nhung là ông Thảnh còn sống là vay trong thời kỳ hôn nhân mục đích sử dụng chung vào việc kinh doanh.

Ông Thảnh đã chết, chưa xác định đủ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Thảnh để đưa vào tham gia tố tụng là thiếu sót. Nếu xác định cho Công ty vay để đầu tư mua vật liệu xây dựng công trình, thì cần thu thập các tài liệu về đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH Đồng Phú Thành để xác định loại hình doanh nghiệp, thành viên doanh nghiệp, số vốn của doanh nghiệp để xác định trách nhiệm theo số vốn của công ty. 

Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi ra bản án, Tòa án chưa hỏi các đương sự về việc áp dụng thời hiệu đối với khoản lãi quá hạn của các khoản vay để làm căn cứ xem xét, giải quyết, vi phạm khoản 2 Điều 184 Bộ luật TTDS.
Về nội dung: Đối với khoản vay 780 triệu đồng tại Hợp đồng vay ngày 2/8/2015, bản án sơ thẩm không tuyên buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn phần lãi trong hạn từ ngày 2/8/2015 đến 2/11/2015 bằng lãi suất của ngân hàng tại thời điểm vay, vi phạm Điều 474 Bộ luật dân sự 2005 và Điều 4 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của HĐTP TAND tối cao quy định về lãi, lãi suất, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn.

Đối với khoản tiền lãi quá hạn, bản án tính trên số nợ gốc là 780 triệu đồng và thời hạn quá hạn tính từ ngày vay 2/8/1015 đến ngày xét xử 25/11/2019, không trừ đi số nợ gốc bị đơn đã trả qua từng thời kỳ là vi phạm Điều 474 Bộ luật dân sự 2005 và Điều 4 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/1/2019 của HĐTP TAND tối cao quy định về lãi, lãi suất, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.

Xét thấy Hội đồng xét xử TAND huyện Đông Hưng vi phạm nghiêm trọng Bộ luật dân sự và Bộ luật TTDS. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, VKSND huyện Đông Hưng kháng nghị toàn bộ Bản án sơ thẩm số 19/2019/DS-ST ngày 25/11/2019 của TAND huyện Đông Hưng, đề nghị TAND tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án.

Vũ Thị Huế